Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2012

Xuân mới và chùm thơ Hoàng Kim

Thung dung

Giang sơn vui thú yên hà
Trúc Mai Sen Hạc đều là bạn quen
Sông Trăng nước biếc vợ hiền
Thung dung đồng ruộng, an nhiên thư nhàn





PEACEFUL LIFE
Happy with peaceful river, mountain and...
Bamboo, Apricot, Lotus, Crane are friends
The Galaxy blue, nice honey wife
Peaceful life in countryside, quite, idle!

(English translation by ThayGiaoGia)


SAUNTERING
Country is pleasured in peace and happiness.
Bamboo, Apricot, Lotus and Crane are friends.
The Moon river with pure water, a good natured wife.
Sauntering the paddy field, enjoying the leisure time.

(English translation by NgocphuongNam)

Đồng cỏ hoa đón xuân





Hạnh phúc đơn sơ sao đẹp thế
Ngắm hoa lại nhớ buổi em về
Ta say đồng ruộng mừng xuân đến
Gần Tết em còn mãi miết đi ?
*
Flower meadows welcome spring

How nice the simple happiness is!
Watching flowers makes me miss you.
My passion for the field is to celebrate the coming spring.
Tet holiday is coming, Do  you continue working?

Thơ của Hoàng Kim (Rút trong tập THUNG DUNG)
English translation by NgocphuongNam
Ảnh
của HP chọn từ Anbum chưa đặt tên trên Internet

Mùa xuân quê hương




Đêm Giáng sinh an lành
Ông già Noel gõ cửa
Chuông ngân nga mười hai giờ đêm
Đông tàn xuân đã đến !


Sáng mai
Em dây đi làm sớm
Trời còn se lạnh
Đừng quên giữ ấm nghe em.


Lời nhắn yêu thương
Niềm vui đầy đặn
Thung dung cuộc đời
Mùa xuân quê hương.


Hoàng Kim



THE SPRING IN OUR COUNTRY


A Christmas Eve in well- being
Christmas father knocks at the door
The bell resounds at 12p.m
The Winter ends, The Spring is coming!


In the morning
You go to work early
It becomes rather cold.
Don't forget to keep warm, dear.


A lovely message
A fulfilled happiness
An easy life
The Spring in our country.


HK

Xem thêm:
Quà xuân




Mùa xuân quê hương Đức Liên sáo trúc
(The Spring in our country - Video in You Tube)

Mùa xuân đằm thắm một Góc nhìn
Mùa xuân quê hương (DẠY VÀ HỌC)
 
Trở về trang chính

Thứ Bảy, 22 tháng 12, 2012

Bác Hồ trong thơ Hải Như


Hoàng Kim

DẠY VÀ HỌC. Nghiên cứu về Con Người và Sự nghiệp của Bác Hồ cần thiết hơn hết là đọc thẳng trước tác của Bác với tác phẩm chọn lọc Hồ Chí Minh tuyển tập trọn bộ ba tập Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2002, 2178 trang. Tiếp đến là cụm bảy tác phẩm chính, chứa đựng nhiều thông tin đầu nguồn mà tôi ưa thích hơn cả, đó là: 1) "Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam" của đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ biên; 2) "Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất, đọc tại Lễ truy điệu trọng thể Hồ Chủ tịch, ngày 9 tháng 9 năm 1969" đúc kết sâu sắc năm cống hiến kiệt xuất nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với đất nước; 3)."Nhân cách lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh " do giáo sư Trần Văn Giàu đúc kết bảy phẩm chất cơ bản của Bác "được con dân nước Việt và thế giới ngợi ca". 4) "Bác Hồ rất ít trích dẫn !" bài của chủ tịch Trường Chinh về phong cách văn chương của chủ tịch Hồ Chí Minh; 5) "Những nhận thức về tư tưởng Hồ Chí Minh" của thủ tướng Phạm Văn Đồng nhà lãnh đạo gần gũi nhất bên cạnh Bác; 6) "Búp sen xanh " và cụm 20 tác phẩm của "nhà văn Sơn Tùng - người viết về Bác Hồ thành công nhất " 7) Chúng cháu canh giấc Bác ngủ, Bác Hồ ơi" và chùm 41 bài thơ của nhà thơ Hải Như - người làm thơ về Bác Hồ ấn tượng nhất. Trong bảy tài liệu trên, thơ Hải Như ở vị trí khiêm nhường nhưng làm sáng góc nhìn Con Người Bác Hồ.
   
                                

Hải Như và bài thơ nổi tiếng

Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật lịch sử hiếm có của Việt Nam. Bác được tôn kính và ngưỡng mộ như một vị thánh. Dường như rất ít ai trên thế giới được như Bác có nhiều ngợi ca bằng viết văn, làm thơ, sáng tác nhạc, huyết họa, điện ảnh, sân khấu, thờ cúng trong gia đình và ngoài xã hội. Thời gian và sự tranh luận thêm bớt thần tượng hóa Bác Hồ không làm xóa nhòa những dấu ấn sâu đậm của Người trong lòng dân. Di sản to lớn nhất của Bác không chỉ là sự nghiệp huyền thoại vô song "anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới" mà cao đẹp hơn hết trong lòng dân là nhân cách Con Người đầy sức cảm hóa mà hiếm có một vị lãnh tụ nào đạt tới. Hải Như là nhà thơ viết về Bác Hồ ấn tượng nhất của lòng tôi trong số những nhà thơ Việt Nam. Dẫu Tố Hữu đã có các bài thơ "Việt Bắc", "Theo chân Bác" viết rất hay về Người, Chế Lan Viên có bài thơ "Người đi tìm hình của nước" thật xúc động; Viễn Phương có bài "Viếng lăng Bác" hay nao lòng, và rất nhiều bài thơ khác nữa. ... Nhưng lạ lùng thay, trên 43 năm trôi qua, tôi vẫn nhớ như in lời thơ của Hải  Như "Chúng cháu canh giấc Bác ngủ Bác Hơi!". Bài thơ do thầy Phạm Ngọc Căng, Phó Hiệu trưởng Trường cấp ba Bắc Quảng Trạch đọc trong đêm truy điệu Bác ngay sau khi bài thơ vừa ra đời, lên sóng truyền thanh Đài Tiếng Nói Việt Nam và thầy chép lại. Cả hội trường mênh mông không ai cầm được nước mắt ...
 
CHÚNG CHÁU CANH GIẤC BÁC NGỦ, BÁC HỒ ƠI 

Hải Như


"Trăng vào cửa sổ đòi thơ"
Bác vừa chợp mắt, xin chờ trăng ơi!


Chúng ta hãy bước nhẹ chân, nhẹ nữa
Trăng trăng ơi, hãy yên lặng cúi đầu...
Trọn cuộc đời Bác có ngủ yên đâu
Nay Bác ngủ, chúng ta canh giấc ngủ.

Hỡi ai đó, không được rời đội ngũ
Theo hàng hai, đi lặng lẽ tiến dần
Đừng khóc oà, hãy rón rén bàn chân
Bước nhẹ nữa. Bác Hồ vừa chợp mắt

Bác nằm đó, bộ ka-ki Bác mặc
Chưa kịp thay, Người vừa ngả lưng nằm.
Nếu ta đoán không lầm; Bác mới đi thăm
Một xóm thợ, xem nơi ăn chốn nghỉ...

Nhưng không phải – vì khi ta ngắm kỹ
Trên má Bác Hồ còn in dấu chiếc hôn
Các cháu nhi đồng lớp học đầu thôn
Được Bác ghé thăm, Bác cho bá cổ...

Hỡi ai đó, cắn chặt môi, hãy cố
Đừng để cho tiếng nấc động tai Người.
Bác Hồ vừa chợp mắt ngủ đó thôi
Trước giường Bác, ta nghẹn ngào đứng ngắm

Mái tóc Bác lẫn với mầu gối trắng
Râu Bác thưa cũng bạc trắng một mầu,
Ta muốn làm con nhỏ vuốt chòm râu
Từng sợi bạc dãi dầu sương, nắng, gió.

Đôi dép lốp như cùng ta kể rõ
Người quên Người, dành hết thảy cho ta!
Từ có Bác Hồ, thêm rạng rỡ ông cha
Tên của Bác đẹp thắm trang lịch sử.

Ta đứng lặng trước giấc Người yên Ngủ!
Chúng ta hãy bước nhẹ chân, nhẹ nữa
Trăng trăng ơi, hãy yên lặng cúi đầu...
Trọn cuộc đời Bác có ngủ yên đâu
Nay Bác ngủ, chúng ta canh giấc ngủ.

Hỡi ai đó, đừng gục đầu ủ rũ
Bác dặn ta: nhớ Bác phải vươn mình
Giường Bác nằm chiếu sáng giữa trăng thanh,
Chiếc giường một suốt đời, ta nhớ mãi...

Cạnh nách Bác, đồng chí đi bên ơi, có phải
Ta nhìn như chiếc quạt Bác hay dùng
Chiếc quạt quê nhà, Bác vẫn giắt lưng!
Cùng với khúc ca dao ngọt ngào, Bác thuộc.

Bên gối Bác còn ấm lời non nước
Ánh hào quang sông núi tụ trên mình
Bác chan hoà như biển lớn mông mênh
Hồn dân tộc kết tinh hồn thời đại...

Hỡi ai đó, như trẻ thơ khóc mãi
Hãy lau khô đừng để lệ chảy tràn
Bác không muốn ta chìm trong biển lệ khóc than
Trước khi ngủ, Bác dặn dò tha thiết

Vầng trán Bác in giấc mơ tuyệt đẹp!
Hãy đọc trong mi mắt khép: nụ cười,
Bác Hồ nằm, tay không để buông xuôi
Đặt trước ngực như khi Người dạo mát.

Ôi ta nhơ hai bàn tay của Bác
Vỗ nhịp cho cả nước hát Kết Đoàn.
Ngày mai đây khi giải phóng Miền Nam
Cả nước hát, vắng bàn tay Bác vỗ...

Ta đứng lặng trước giấc Người yên ngủ!
Chúng ta hãy bước nhẹ chân, nhẹ nữa
Trăng trăng ơi, hãy yên lặng cúi đầu...
Trọn cuộc đời Bác có ngủ yên đâu
Nay Bác ngủ, chúng ta canh giấc ngủ.

Hỡi ai đó, từ Cà Mau về đủ
Tạm dừng bên nhường bước bạn bè xa
Hỏi có ai giàu hơn Bác Hồ ta
Người chợp mắt, cả năm châu cùng đến

Trên giường Bác, chúng tôi không thắp nến
Đã có trăng sao ôm ấp quanh Người
Bác yêu trăng như yêu một con người
Trong thơ Bác, trăng với hoa là bạn

Giao thừa tới từ nay đâu tiếng Bác
Chúc đồng bào chiến sĩ, giọng ngân vang
Giọng của Bác Hồ làm ấm cả không gian
Nghìn thế hệ mai đây còn ấp ủ...

Hỡi ai đó, xiết chặt thêm đội ngũ
Người vẫy ta kia, môi Bác mỉm cười
Bác giữa Ba Đình rực rỡ nắng tươi
Trong tim óc chúng ta, Người vẫn sống

Bác dẫu ngủ, kẻ thù đừng hy vọng
Ánh sáng Hồ Chí Minh mãi mãi soi đời
Bác thức tỉnh ta: giữ lấy kiếp người
Ta thức tỉnh, nguyện bên Người vĩnh viễn

Xin Bác ngủ giữa dòng đời lưu luyến
Với Mác Lênin, giấc ngủ nghìn đời
Chúng cháu canh giấc Bác ngủ, Bác Hồ ơi...

(Chiều 8 tháng 9 năm 1969)


Hải Như nhà thơ về Bác H

Theo đại tá nhà văn Bùi Văn Bồng trong bài "Nhà thơ Hải Như: Hãy cãi lại Bác Hồ" thì "Nhà thơ Hải Như năm nay đã 90 tuổi, sinh năm 1923, tên thật là Vũ Như Hải, quê thành phố Nam Định. Ông tham gia cách mạng trước năm 1945 trong Hội truyền bá Quốc ngữ ở Hà Nội. Năm 1946, ông vào quân đội, tham gia lớp đào tạo báo chí cách mạng đầu tiên mang tên Huỳnh Thúc Kháng ở chiến khu Việt Bắc. Sau đó, ông lần lượt công tác ở các báo Sông Lô, Vệ quốc quân, Cứu quốc và báo Giác Ngộ rồi sau đó dừng viết báo, chỉ lo chung thủy với “Nàng Thơ”. Theo ông: Làm báo là phục vụ cho nhiệm vụ chính trị thời điểm, thời sự, còn làm thơ là sáng tác ra tác phẩm nói lên những vấn đề của con người gắn với thời cuộc, thời đại. Nhà thơ cần tìm ra cái cốt lõi của đời sống xã hội, truy nguyên vào bản chất của nó, đồng thời "nấu cao ngôn ngữ, cắt chữ dựng tượng" để có những bài thơ, câu thơ chắt lọc, lắng đọng. Vì thế nhà thơ cần phải có năng lực dự báo, cánh chim báo bão, là người đi đầu phản biện góp phần cho sự phát triển các giá trị Chân-Thiện-Mỹ trong xã hội; đem hồn thơ làm thắm được hồn người, thơ không nên chỉ lo phục vụ chính trị, mà phải văn dĩ tải đạo.  Ông là nhà thơ thuộc thế hệ đầu của cách mạng. Ông nổi tiếng với đề tài thơ viết về Hồ Chi Minh, trong đó nổi bật khoảng trên 50 bài in sách, đăng báo. Ông làm thơ ít chú ý đến vần-nhịp điệu, không tự khuôn vào các thể loại, mà cốt ở tứ thơ, ý thơ. Vì thế, thơ Hải Như tự nhiên như nói, tự nhiên nói lên suy nghĩ và chính kiến của mình, như lời tâm sự chân tình, lắng đọng. Những bài thơ đề tài Hồ Chí Minh với cách thể hiện riêng không lẫn với nhà thơ nào.".
 
Tôi chưa rõ số bài thơ của Hải Như viết về Bác Hồ thực sự có bao nhiêu nhưng do kính trọng thơ ông nên tôi may mắn tiếp xúc được nhiều thơ ông viết về Bác. Tôi tâm đắc với anh Bùi Văn Bồng là Hải Như viết "những bài thơ đề tài Hồ Chí Minh với cách thể hiện riêng không lẫn với nhà thơ nào". Hầu như bài nào cũng hay. Hầu như bài nào tôi biết cũng đều tâm đắc kỳ lạ. Nhà thơ Hải Như tiếp cận Bác Hồ không phải tiếp cận một lãnh tụ mà tiếp cận Bác với sự kính phục Con Người. Ông không xu nịnh, hoan hô, ngợi ca theo số đông mà thầm phục nhân cách: 

KỸ NIỆM SINH NHẬT NGƯỜI NĂM ẤY


Hải Như

Nếu tôi nhớ không lầm  

Có một nhà phê bình văn học được Bác Hồ mời lên 

Thân tình góp ý:

“Làm nhà yêu nước đủ rồi! (Người cười vui)

Đừng bắt Bác “cõng” thêm nhà thơ,

Bác mệt!” 


Cũng vậy - khi trao đổi với mọi người 

 Hồ Chí Minh không bao giờ 

 tự cho mình đúng hết

Hãy cãi lại Bác Hồ…


(Người đưa tay nghiêm nghị chỉ vào từng chúng ta)

Có lẽ nào

Các chú

lại không cho Bác
có quyền được biết mình sai!                          

(Tháng 5 năm 1980).


Học Bác Hồ qua thơ Hải Như

Những chính khách Việt Nam lỗi lạc Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Giàu, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, ... đều có những cách riêng để học Bác Hồ.


"Dĩ công vi thượng" là nhân cách lớn của đại tướng Võ Nguyên Giáp đặt lợi ích chung lên trên hết. Đó là lời Bác Hồ nói với Bác Giáp tại hang Pắc Bó trước năm 1945. Đại tướng Võ Nguyên Giáp suốt đời tâm đắc điều này và là tấm gương mẫu mực về Dĩ công vi thượng từ “buổi đầu dựng nước” “chiến đấu trong vòng vây” đến “những năm tháng quyết định”, “ứng xử cuối đời” đều mẫu mực một nhân cách lớn.
 

Giáo sư Trần Văn Giàu thì đúc kết bảy phẩm chất cơ bản của Bác Hồ được con dân nước Việt và thế giới ngợi ca đối với "Nhân cách lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh ": 1) Ưu tiên đạo đức; 2) Tận tụy quên mình; 3) Kiên trì bất khuất; 4) Khiêm tốn giản dị; 5) Hài hòa kết hợp; 6) Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lý; 7) Yêu thiên nhiên hòa hợp với thiên nhiên.

Chủ tịch Trường Chinh thật sâu sắc khi chỉ ra "Bác Hồ rất ít trích dẫn !" Lúc đầu ông cũng cho là ngẫu nhiên. Về sau, hỏi trực tiếp, Bác nói: "Mác, Ang ghen, Lênin nói rất đúng. Nhưng hoàn cảnh Mác, Angghen, Lênin hoàn toàn khác hoàn cảnh của chúng ta. Vậy nên muốn nói gì, trước hết phải hiểu cho thật rõ điều mà các vị ấy muốn nói, nói cho phù hợp với hoàn cảnh của mình, cho dân mình dễ hiểu. Do đó, Bác viết bằng sự suy nghĩ của mình. Bác rất ít trích dẫn”. (Hà Đăng 2002. Trường Chinh, người anh cả trong làng báo. Trong sách: Trường Chinh, một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam. Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 320). Chủ tịch Trường Chinh hiểu thực chất ý tứ câu nói của Bác, đó là nắm chắc thực tiễn, coi trọng thực tiễn, nói và làm bất cứ điều gì phải phù hợp với hoàn cảnh. Những đổi mới của Việt Nam gắn liền sâu sắc với bài học đó.

Nhà thơ Hải Như cũng lặng lẽ học Bác nhưng ông đã tinh tế chỉ ra điều cần học nhất ở Bác Hồ là HỌC LÀM NGƯỜI,  Bác Hồ nói: “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính. Thiếu một mùa thì không thành trời. Thiếu một phương thì không thành đất. Thiếu một đức thì không thành người”. “Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Nhà thơ Hải Như lặng lẽ học Bác, quan sát
thực tiễn và mạnh dạn đề xướng việc cấp bách nhất trong phong trào Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh hiện nay là phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân đang bành trướng trong toàn Đảng, làm suy yếu Đảng. Ông viết:

MỘT LỐI ĐI RIÊNG

Chúng ta thích đón đưa
Bác Hồ không thích
Đến thăm chúng ta Bác Hồ thường “đột kích”
Chữ “đột kích” vui này Người nói lại cùng ta
Và đường quen thuộc Bác chẳng đi đâu
Đường quen thuộc thường xa
Bác hiện đến bằng lối tự tìm ra:
Ngắn nhất
Bác không muốn giẫm lên mọi đường mòn có sẵn
Khi đích đã nhắm rồi
Người luôn luôn tạo cho mình:
Một lối đi riêng.
(1 – 1970)


NGƯỜI SAU KHÔNG BỊ KHUẤT

Bác Hồ đứng
Người sau không bị khuất
Ta đứng (thường quên)
Che lấp...
Bạn mình!
(10 – 1970)


CẦN CÓ NHỮNG PHÚT BUỒN

Khác với chúng ta
Bác Hồ đắp chăn đơn – không muốn mình ấm quá
Người trằn trọc canh dài
Vì tiếng trẻ rao đêm
Khi còn những bất công (chưa dễ dàng ta xóa)
Cần có những phút buồn
Nâng chúng ta lên.
(1970)

ÁO THUỞ HÀN VI

Khi tiếp khách người thân
Bác vẫn khoác chiếc áo bông sờn
Hai vai áo này đây hai mụn vá
Đâu phải chỉ thương dân còn vất vả
Ta hiểu Người muốn ngụ ý sâu xa
(Bác Hồ thường không nghĩ hộ cho ta)
Người gợi ý. Ta tự tìm chân lý
Áo thuở hàn vi
Bác Hồ vẫn quý
Nhiều chúng ta lãng phí cả... con người.
(5 – 1971)


ĐÂU CHỈ VÌ GIẢN DỊ

Bác Hồ đi dép lốp cao su
Đâu chỉ vì giản dị
Mà vì lẽ cao hơn
Ta lười nghĩ chẳng tìm thêm
Khi trái đất này còn những trẻ em
Chưa có đủ giày đi
Người không sao sống khác
(1970)


KHÔNG ĐÁNG SỢ KẺ THÙ TRƯỚC MẶT

Ta hãy tự trả lời ta – Bạn hỡi
Khi ta vui
Và cả lúc ta buồn
Tâm hồn ta có trong sáng đẹp hơn
Trước phút đi xa Bác Hồ căn dặn
Không đáng sợ kẻ thù trước mặt
Sợ nhất
Kẻ thù ẩn náu trong ta!
(1970)


TRONG PHÒNG NHỎ MÌNH TA

Ta không muốn chỉ ngắm hoài bức ảnh
Bác Hồ cười trán chẳng rõ nếp nhăn
Trong phòng nhỏ mình ta
Rất nhiều lúc ta cần
Được thấy Bác nghiêm nhìn ta – tư lự
Và được thấy cả lúc Người giận chứ!
Lặng lẽ ngoảnh đi...
(Ta tự hiểu với mình...)
(9 – 1971)


NGÀI QUÁCH

Người tù bị nhốt lao làm thơ – rung động chân thành
Ngợi ca người coi ngục
Mỗi lần đọc bài thơ “Ngài Quách” trong Nhật kỹ trong tù
Ta lại tự hỏi thêm:
Có phải Bác Hồ muốn giúp ta định nghĩa rõ hơn
Thế nào là người cộng sản?
Người biết chắt chiu từng giọt người trong xã hội còn đêm
Người tin vào bản chất người không một ai muốn xấu
Người không cho là đã nhuốm bùn rồi thì hết nảy những mầm sen
(9 – 1978)


ĐỎ MẶT

Đứng trước khó khăn
Bác Hồ dặn ta cười
Và do đó mà ta biết khóc
Khi nghĩ xấu
Ta không còn... đỏ mặt
Ấy là khi ta bỏ mất ta rồi!
(1970)


TRÊN HÈ PHỐ MAI ĐÂY

Trên hè phố chúng ta mai đây
Nếu còn một trẻ nhỏ bị còng ta
Vì lẽ này lẽ nọ
Thì em ơi – đừng sợ
Phải nói thật với mình:
Lỗi đó ở em
Lỗi đó ở anh
Bác Hồ dạy chúng ta điều trước tiên
Nhận lỗi.
(5 – 1972)

Nhà thơ Hải Như với sự ngưỡng mộ chân thành sâu sắc đối với Con Người Bác Hồ đã chỉ ra ba khẩu hiệu mà theo ông do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra, nhưng chưa viết thành văn bản mà ông đã hiểu được trong quá trình nghiên cứu những tài liệu về hành trình sự nghiệp của Người. Đó là ba Không: Không vinh thân phì gia; Không phân biệt đối xử; Không đặc quyền đặc lợi.

Tại bài phỏng vấn “Thơ ca và những đề tài lớn” ông viết: “Khẩu hiệu thứ nhất là “Không vinh thân phì gia”. Tư tưởng phương Đông, một người làm quan cả họ được nhờ, đã làm quan thì thân được vinh hiển thay đổi cả vị trí xã hội và kinh tế, gia quyến thì được nhờ vả, được kính trọng lây. Hồ Chí Minh không vinh thân phì gia. Bà Thanh – chị ruột ra thăm Người rồi cũng về quê Kim Liên. Bác không có người thân nào ở cạnh để đề bạt cả, cho đến hết đời vẫn như thế. Thứ hai là “Không đặc quyền đặc lợi”. Hồ Chí Minh khi làm Cách mạng hay khi làm Chủ tịch Nước, cụ đều sống như những người dân thường. Cả nước đều biêt, khi có chính sách đề ra hũ gạo tiết kiệm thì hàng ngày Người cũng bớt một nắm gạo, bớt bữa ăn. Bác sống giản dị như người bình dân không nhà lầu, xe sang, ăn uống cũng đơn giản không đòi tiêu chuẩn riêng. Người không hưởng đặc quyền đặc lợi. Cụ vẫn đi dép lốp, đi xe cũ, mặc áo vá... luôn quan hệ gần gũi với người cận vệ, hàng ngày vẫn cho cá ăn, tưới rau. Khẩu hiệu thứ ba xuyên suốt cuộc đời Người. Đó là “Không phân biệt đối xử”. Hồ Chí Minh là người cộng sản nhưng khi thành lập Liên minh Chính phủ, ông đã mời cả những người ở đảng khác vào như Quốc Dân Đảng, Đảng Xã Hội... hay không phải Đảng viên. Cụ cũng mời các thành phần xã hội tham gia lãnh đạo Đất nước, tham gia kháng chiến... Về vấn đề kê khai tài sản, tôi thấy Nghị quyết Đảng đề ra đã lâu nhưng vẫn chưa làm được. Vẫn lúng túng quá. Phải chăng có điều gì khó khăn, khuất tất? Tại sao không học tập Hồ Chí Minh, chúng ta phải thấy rằng đây là một lãnh tụ duy nhất trên thế giới không kê khai tài sản mà công khai tài sản, Người chỉ xách một cái vali và đôi dép lốp về nước, làm Cách mạng đến khi làm Chủ tịch nước vẫn công khai tài sản từng ấy. Người dân tin cậy Hồ Chí Minh vì ông là lãnh tụ sạch cho tới lúc ông ra đi.”

Nhà thơ Hải Như có em ruột và con trai hi sinh cho Tổ Quốc. Liệt sĩ Vũ Như Hà - em ruột nhà thơ Hải Như - sinh năm 1925 là người đã từng cùng ông Lê Đức Nhân (gốc người Đức do Bác Hồ đặt tên Việt) can đảm đóng giả sĩ quan Pháp vào đánh úp thắng lợi đồn giặc ở châu Nguyên Bình, Cao Bằng. Sau này, anh hi sinh năm 1948 ở Việt Bắc. Nhà thơ đã khóc em “Đi 22 tuổi chưa là trẻ/Ở đủ trăm năm chửa hẵn già / Kiêu hãnh ai xưa vào trại giặc/ Nghiêng cười sáng mãi nét tinh hoa”. Liệt sĩ Vũ Bắc Dũng - con trai nhà thơ Hải Như - sinh năm 1949 hi sinh năm 1969 ở chiến trường biên giới Việt Lào, đến nay vẫn chưa tìm thấy mộ. Nhà thơ Hải Như trong nỗi đau ấy hẵn thấu hiểu nỗi đau của Bác Hồ khi mất mẹ và em. Ông thấu hiểu, hiểu đúng và đồng cảm vì sao Bác Hồ đi dép lốp, cần có những phút buồn” mặc áo vá, đắp chăn đơn để Người hiểu và thương người lính cùng những người dân đói rách. 

Nhà thơ Hải Như là thi sĩ nổi tiếng của hơn 100 bài thơ tình, quê hương, đất nước được phổ nhạc, trong đó mảng đề tài về Bác Hồ là sâu sắc hơn cả. Nhà sử học Đào Duy Anh nói với ông một câu bằng tiếng Pháp mà nhà thơ Hải Như nhớ mãi: “Anh đã có đề tài chuyên chở tư tưởng của anh rồi” và “Anh cứ tiếp tục làm đi!”. Đọc thơ Hải Như cùng những điều tâm huyết của ông trả lời khi được phỏng vấn đã giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về những giá trị nhân văn cao cả của Bác. Đó là bài học dấn thân “vì dân phục vụ” mà mỗi chúng ta, và đặc biệt là những vị đang nắm trọng trách của đất nước, chịu trách nhiệm trước lịch sử và nhân dân, cần đọc và suy ngẫm lời giáo sư Trần Văn Giàu: “Người ta không thể trở thành một Cụ Hồ Chí Minh, nhưng ở Cụ Hồ, mỗi người có thể học một số điều làm cho mình trở thành tốt hơn.”

TS. Hoàng Kim
Giảng viên chính Cây Lương thực Rau Hoa Quả
Khoa Nông học, Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh
Khu phố 6, Phường Linh Trung, Quận Thủ Đức




Email: hoangkim.vietnam@gmail.com;  hoangkim@hcmuaf.edu.vn; Mob.: 0903 613024
Bài đăng ở: http://dayvahoc.blogtiengviet.net/2012/12/22/bac_ho_trong_tho_hai_nhu
                       http://hoangkimlong.blogspot.com/2012/12/bac-ho-trong-tho-hai-nhu.html   
* Ghi chú: Bài nghiên cứu, học tập đạo đức chủ tịch Hồ Chí Minh. Một số tư liệu đã và đang được tập hợp tại chuyên mục Hồ Chí Minh ở Danh nhân Việt


Xem thêm:

Nhà thơ Hải Như 90 tuổi  (ảnh Minh Anh báo Văn Nghệ số 29 ngày 21.7.2012)

Thơ ca và những đề tài lớn (Minh Anh báo Văn Nghệ số 29 ngày 21.7.2012)
Nhà thơ Hải Như (Tiểu sử và tác phẩm – Trần Mỹ Giống blog ngày 16.12.2012)
Nhà thơ Hải Như: “HÃY CÃI LẠI BÁC HỒ" (Bùi Văn Bồng blog tháng 12/2012)

Trở về trang chính
HOÀNG KIM
DẠY VÀ HỌC
DAYVAHOC

Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012

Người Thầy với việc Dạy và Học




Hoàng Kim
                                        

Để chấn hưng giáo dục đại học Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người Thầy ưu tú có tâm đức, thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và kỹ năng giảng dạy tốt. Nâng cao chất lượng người Thầy là yếu tố cần hoàn thiện trước tiên, kế đó là nâng cao chất lượng học viên. Sự đột phá cần nhắm thẳng vào ba việc chính, đồng bộ và đồng thời: 1) tuyển chọn, đào tạo, thu hút và trọng dụng Thầy tốt, rà soát tổ chức, quy hoạch nhân sự, đầu tư đồng bộ và hiệu quả cho một số đơn vị giảng dạy nghiên cứu trọng điểm phù hợp với định hướng chiến lược quốc gia và sát với thị trường lao động, tập trung vào những vấn đề đất nước, vùng miền và cơ sở giảng dạy nghiên cứu có lợi thế so sánh; 2) cải tiến phương pháp dạy và học theo hướng “dạy và học tương tác”“học để làm”(learning by doing) cải tiến chương trình giảng dạy, xây dựng giáo trình chất lượng, sát thực tiễn,  ứng dụng công nghệ tin học và E-Learning vào dạy và học, bám sát và giải quyết những yêu cầu thực tiễn cấp bách của sản xuất đời sống; 3) quy hoạch, cải tạo, nâng cấp trọng điểm môi trường dạy và học để giáo dục và khoa học công nghệ thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Nhiệm vụ dạy học là “dạy thái độ, dạy phương pháp, dạy nghề”. Trong đó, dạy phương pháp là quan trọng và cơ bản nhất trường đại học để phát triển trí tuệ sinh viên, thúc đẩy tư duy sáng tạo và năng lực hoạt động thực tiễn. Mục đích sau cùng của DẠY và HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc.



1.    SỰ CẤP THIẾT CHẤN HƯNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM

Giáo dục - đào tạo đóng vai trò chủ yếu trong việc giữ gìn, kế thừa và phát triển những giá trị thành tựu của nền văn minh nhân loại. Trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ ngày nay, tri thức trở thành động lực chính của sự tăng tốc phát triển. Giáo dục - đào tạo được coi là nhân tố quyết định sự thành bại của mỗi quốc gia trên trường quốc tế và sự thành đạt của mỗi thành viên trong cuộc sống. Giáo dục đại học là tác nhân hiêụ quả, chủ đạo và trực tiếp giúp Nhà nước hoạch định chính sách phát triển khoa học, kinh tế, xã hội. Chất lượng giáo dục đại học là tấm gương thần kỳ để nhìn vào đó hiểu tương lai dân tộc sẽ đi về đâu. Đất nước phát triển là dựa vào công lớn học tập, lao động sáng tạo của nguồn lao động trẻ. Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Vấn đề then chốt trong chính sách quốc gia là chăm lo giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng hiệu quả nguồn lực khoa học công nghệ.

Qua hai mươi lăm năm đổi mới (1986-2011), giáo dục đại học nước ta đã phát triển rõ rệt về quy mô, đa dạng về loại hình và phương thức đào tạo. Bài “Thực trạng giáo dục và những kiến nghị” của giáo sư Nguyễn Lân Dũng đã trích dẫn “Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 (Ban hành kèm theo Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ Tướng Chính Phủ)”cho thấy:

“Nhìn lại trong10 năm qua (2001 - 2010), quy mô đào tạo nghề đã tăng 3,08 lần, trung cấp chuyên nghiệp tăng 2,69 lần; quy mô giáo dục đại học tăng 2,35 lần. Năm 2010, số sinh viên cao đẳng và đại học trên một vạn dân đạt 227; tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 40%, bước đầu đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tăng nhanh về số lượng, nâng dần về chất lượng, từng bước khắc phục một phần bất hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu phổ cập giáo dục và phát triển các cấp học và trình độ đào tạo. Trong 10 năm qua, tỷ trọng quy mô đào tạo ngoài công lập trong tổng quy mô đào tạo tăng: sơ cấp nghề tăng từ 28%5 lên 44%, trung cấp và cao đẳng nghề tăng từ 1,5% lên 5,5%, trung cấp chuyên nghiệp tăng từ 5,6% lên 27,2%, cao đẳng tăng từ 7,9% lên 19,9%, đại học tăng từ 12,2% lên 13,2%. Cơ sở vật chất nhà trường được cải thiện. Tỷ lệ phòng học kiên cố tăng từ 52% năm 2006 lên 71% năm 2010. Nhà công vụ cho giáo viên và ký túc xá cho học sinh, sinh viên đã được ưu tiên đầu tư xây dựng và tăng dần trong những năm gần đây. Trong 10 năm qua, những thành tựu của giáo dục nước ta đã đóng góp quan trọng trong việc nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, tạo điều kiện cho đất nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.”

Tuy vậy, những thành tựu nói trên của giáo dục đại học Việt Nam là chưa vững chắc, chưa mang tính hệ thống và cơ bản, chưa đáp ứng được những đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước và nhu cầu học tập của nhân dân. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu: "giáo dục và đào tạo nước ta vẫn còn những bất cập, yếu kém, chất lượng giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa thực sự gắn với nhu cầu của xã hội. Giáo dục kiến thức về xã hội, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, trình độ ngoại ngữ, kỹ năng thực hành còn kém, chưa phát huy khả năng tự học, tính chủ động, sáng tạo của người học; việc tham gia vào các hoạt động xã hội của học sinh, sinh viên còn nhiều hạn chế…" Nhiều trí thức tâm huyết đã cảnh báo rằng, nếu tới đây giáo dục tiếp tục không thành công thì đó sẽ là điều bất hạnh lớn cho dân tộc, vì không ai lường hết được hậu quả của nó đối với mọi mặt đời sống của đất nước khi hội nhập.

Chấn hưng giáo dục là mệnh lệnh của cuộc sống. Sự đảm bảo nguồn nhân lực khoa học công nghệ có cơ cấu và chất lượng phù hợp với yêu cầu thị trường lao động và đủ khả năng tiếp cận với nền khoa học và công nghệ tiên tiến có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong xu thế toàn cầu hoá, mối quan hệ kinh tế ngày càng gia tăng, nhiều công ty đa quốc gia ra đời, hình thành một nền kinh tế không biên giới, tạo áp lực hợp tác và cạnh tranh toàn cầu. Mối giao lưu văn hoá tăng rất nhanh, các phương tiện truyền thông, mạng viễn thông, internet đã cải biến xã hội một cách sâu sắc, “đưa thế giới vào mỗi gia đình”. Mối liên hệ hợp tác về đào tạo, nghiên cứu đã phá vỡ các phương thức giảng dạy truyền thống để thay thế bằng những phương pháp giáo dục – đào tạo kiểu mới theo tư duy năng động hơn và hiệu qủa hơn gấp bội.

“Đổi mới cơ bản và toàn diện Giáo dục Đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020” mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội. Lý do vì: “giáo dục đại học là hệ thống máy cái của khoa học công nghệ và nền kinh tế quốc dân, là nhân tố quyết định sự thành bại của mỗi quốc gia”; “sự tụt hậu của đại học nước ta so với thế giới là nghiêm trọng hơn nhiều so với giáo dục phổ thông” Nền giáo dục của chúng ta không chỉ lạc hậu mà còn nhiều điểm hạn chế thiên về dạy kiến thức , nhẹ về giáo dục bồi dưỡng nhân cách” “cần cấp bách chuyển giáo dục đại học theo hướng hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” (giáo sư Hoàng Tụy, 2006, 2012 ).“ khi có được cách giảng dạy và học mới thì có thể đào tạo cấp tốc nhân sự cho đại học kiểu mới theo một giáo trình mới”; “cần phải thay đổi ngay từ cách đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm vì nếu không làm được việc đó thì mọi sửa đổi ở các đại học chuyên môn khác đều không có tác dụng (Giáo sư Võ Tòng Xuân, 2006); Chưa bao giờ nhiệm vụ chấn hưng giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục đại học cần thiết và cấp bách như hiện nay (Nguyên Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình 2012, Nhà văn Nguyên Ngọc 2012,  giáo sư Chu Hảo 2012)

2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC.



2.1. Những biến đổi lớn về giáo dục của nước ta

Thế kỷ 20 đã chứng kiến những biến đổi sâu sắc, to lớn của giáo dục đại học Việt Nam. Năm 1919 với khoa thi cuối cùng thời phong kiến Việt Nam đã khép lại Cựu học, khởi đầu Tân học, hướng về chân trời tri thức phương Tây. Mẫu trí thức cũ của các chế độ phong kiến trước đây ở Việt Nam là “học để làm quan”. Thi cử là để chọn người vào làm quan trong bộ máy hành chính. Văn Miếu – Quốc Tử Giám là trường đại học đầu tiên của nước ta được xây dựng năm 1070, đời vua Lý Thánh Tông, đến đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Đây là cơ sở đào to và giáo dục cao cấp của triều đình. Việc dạy và học trọng tâm là kinh sách “thánh hiền”, kế sách “trị quốc, an dân”, dạy làm người, dạy đối nhân xử thế mà xem nhẹ việc học khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Mẫu trí thức mới của nửa đầu thế kỷ 20 ở nước ta đã đào tạo chuyên ngành hành chính, bác sĩ, canh nông, kỹ sư, họa sĩ, kiến trúc sư để làm lực lượng lao động tự do, tuy hình thành nhưng chưa cố kết bền chắc. Những năm cuối của thế kỷ 20 đến những năm đầu thế kỷ 21, xã hội Việt Nam và giáo dục đại học Việt Nam đứng trước những biến động sâu sắc chưa từng thấy của phong trào Duy Tân, cách mạng tháng Tám, 30 năm chiến tranh giải phóng, 10 năm khôi phục kinh tế sau chiến tranh, 20 năm đổi mới. Đây là những biến đổi sâu sắc, to lớn tác động toàn diện đến nền giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục đại học nói riêng.



Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh là cầu nối gia đình nông nghiệp trước và sau giải phóng Việt Nam hoàn toàn thống nhất. Trường là một trong hai trọng điểm quốc gia đào tạo nguồn lực nông nghiệp cho cả nước cùng với Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Trên nửa thế kỷ thành lập (1955-2012), Trường đã trãi qua bảy lần thay tên, nhưng tên Trường vẫn luôn giữ cái cội nguồn lúc mới thành lập, đó là cái gốc nông nghiệp trong danh xưng. Tư liệu lịch sử “Trường tôi và lòng thương yêu gửi lại của thầy Lưu Trọng Hiếu” là bài học rất quý của Trường giúp ta xâu chuỗi những biến đổi lớn lao về giáo dục đại học trước và sau ngày Việt Nam thống nhất để soi sáng những giải pháp chính cho sự hội nhập và phát triển.



Nghề nông làm gốc “Dĩ nông vi bản” là biểu tượng của ngôi trường chữ U. Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ cho rằng bốn giải pháp chính chấn hưng nước Việt: đầu tiên phải tác động trực tiếp vào đội ngũ lãnh đạo cao nhất của đất nước với biểu tượng chữ T của Dinh Độc Lập, kế đến phải là chú trọng kinh tế “phi thương bất phú” không buôn bán thì chẳng thể làm giàu với biểu tượng chữ H của Chợ Đà Lạt, tiếp theo phải là quan tâm nông nghiệp với biểu tượng chữ U của Trường Canh Nông, nối kết với chỉnh đốn pháp luật biểu tượng bằng con dấu pháp lý của kiến trúc Hồ Con Rùa. Theo ông Thụ, đó là vương đạo Quốc gia.


Giáo sư Tôn Thất Trình tuy bận trọng trách hai lần giữ chức Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa của chính phủ Sài Gòn năm 1967 và 1973 nhưng thầy vẫn làm Giảng sư và Hiệu trưởng của Trường. Sau ngày Việt Nam thống nhất, thầy Tôn Thất Trình làm chánh chuyên viên, tổng thư ký Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế của FAO (Rome) tiếp tục đóng góp hiệu quả cho nông nghiệp Việt Nam. Bài viết “Thầy bạn là lộc xuận cuộc đời” đã ghi lại. Việc ghi chép tỷ mỷ quá trình thành lập Trường, cách tổ chức ban giảng huấn và sự phát triển nguồn nhân lực Đại Học Nông Lâm trong hai mươi năm đầu và hơn ba mươi năm sau ở “Trường tôi và lòng thương yêu gửi lại của thầy Lưu Trọng Hiếu” là bài học lịch sử cho sự nghiên cứu phát triển.



2.2 Chất lượng dạy học đại học Việt Nam

Đánh giá chất lượng dạy học đại học Việt Nam hiện có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Một cách khái quát là giáo dục đại học Việt Nam đã làm đươc nhiều việc nhưng chưa theo kịp được so với yêu cầu như đã đề cập ở phần đầu. Đánh giá chất lượng dạy học đại học Việt Nam phải đặt lại câu hỏi sản phẩm chúng ta cần đào tạo ra là gì? Những thanh niên đó cần đáp ứng những yêu cầu như thế nào? Bà Tôn Nữ Thị Ninh đã lấy một ví dụ quan sát sinh viên Học viện Quan hệ Quốc tế là nơi mà bà có quen biết nhiều, khi họ chỉ cầm hai, ba cuốn sách trong tay phải đọc trong vòng mấy ngày là họ cảm thấy rất mệt mỏi và hoảng hốt, trong khi sinh viên ở Mỹ thì người ta giao cho mấy chục quyển sách trong một tuần là chuyện rất bình thường. Bà cho rằng, vấn đề đặt ra là đọc như thế nào chứ đâu phải là đọc từng trang một của mấy chục quyển sách đó. Sinh viên của chúng ta ít biết cần phải học như thế nào, đáp ứng những tiêu chuẩn gì mà chỉ tập trung hoàn thành một số kiến thức rất cố định. Đây là vấn đề bức xúc vì cải cách giáo dục đại học nước ta đang diễn ra trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hoá và sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới. Thị trường lao động chuyển biến rất lớn. Cần một cuộc cách mạng đau đớn, quyết liệt trong đào tạo và sử dụng trí thức. Trí thức thực là trí thức - cán bộ thực là cán bộ, ai vào việc nấy, độc lập sáng tạo mới mong kinh tế, văn hóa nước nhà thực sự cất cánh bền vững. Vấn đề cấp bách của giáo dục đại học hiện nay là chất lượng sinh viên sau khi ra trường chưa đáp ứng kịp nhu cầu thị trường công việc trong nước và cạnh tranh quốc tế. Nhà trường chúng ta đang dạy những cái mà giáo viên có, xây dựng những chương trình giảng dạy nghiên cứu trên căn bản những điều mà thầy cô đã được đào tạo và có kinh nghiệm. Lực lượng giảng viên đại học chưa theo kịp với yêu cầu cấp bách của sản xuất đời sống.  



2.3 Giải pháp nâng cao chất lượng dạy học đại học

Theo ý kiến của TS. Huỳnh Công Minh 2012, sự cấp thiết phải đổi mới toàn diện, đồng thời và đồng bộ: mục tiêu giáo dục, nội dung chương trình, phương pháp dạy học, phương thức đánh giá, cơ chế quản lý và thiết chế tổ chức nhà trường.


Mục tiêu giáo dục phải đổi mới mạnh mẽ từ con người khoa bảng thành con người thực tế; từ mục tiêu nhồi nhét kiến thức hàn lâm chuyển thành năng lực làm chủ cuộc sống; từ cơ chế độc quyền với từng hoạt động đơn lẻ chuyển sang phục vụ xã hội đa dạng, cạnh tranh với tinh thần hợp tác, thân thiện.

Nội dung chương trình phải đổi mới từ phân hóa theo môn học thành tích hợp theo mục tiêu đào tạo; giảm lý thuyết từ chương, tăng cường thực tế; đổi mới mạnh mẽ từ nhà trường khép kín, gò bó sang giáo dục xã hội, mở rộng cửa trường đưa nhà trường thâm nhập vào cuộc sống.


Phương pháp dạy học phải đổi mới từ dạy số đông sang dạy cá thể, dạy cách học; đổi mới từ dạy áp đặt một chiều của người dạy sang tương tác đa chiều của người học với thầy cô, bạn bè, sách vở, trong gia đình và ngoài xã hội; không dừng lại ở lý thuyết, minh họa mà vươn tới hoạt động thực hành, trải nghiệm, làm sinh động và hiệu quả hơn nội dung giáo dục để đạt yêu cầu mục tiêu giáo dục tốt nhất; làm cho học sinh thích thú, chủ động và tích cực tự tìm tòi, nâng cao năng lực tự học, học suốt đời, học mọi lúc mọi nơi.
Đánh giá quá trình dạy học
vừa mang tính công nhận nhưng quan trọng hơn còn có tác dụng định hướng giáo dục rất hữu hiệu – “Thi cử thế nào, thầy và trò dạy và học như thế ấy!” Phải đổi mới mạnh mẽ hoạt động đánh giá, coi trọng đánh giá của giáo viên ngay trong quá trình dạy học, đây là hoạt động chủ yếu thay vì tập trung thi cử cuối khóa nặng nề, đối phó, hình thức, thiếu thực chất thoát ly mục tiêu đào tạo. Phải tạo điều kiện cho người học tự đánh giá để tự hoàn thiện mình, phải phối hợp với phụ huynh đánh giá học sinh để tạo sự thống nhất hệ thống giá trị giữa nhà trường, gia đình và xã hội.


Cơ chế tổ chức quản lý, phải đổi mới mạnh mẽ từ quan liêu bao cấp sang cơ chế tự chủ nhà trường, không chờ đợi, ỷ lại vào cấp trên mà phải tạo điều kiện cho từng giáo viên sáng tạo, tự giác chấp hành luật pháp, thực hiện quy chế với ý thức tổ chức kỷ luật cao, đồng thời chủ động thể hiện từng động tác giáo dục phù hợp và hiệu quả với từng học sinh trong quá trình dạy học như những nhà giáo dục thực thụ.


Thiết chế tổ chức nhà trường phải đổi mới phù hợp với quan điểm đổi mới, giảm sỉ số trong lớp từ 35, 45 học sinh xuống còn 20, 30 học sinh; học sinh học tập và hoạt động cả ngày trong trường (2 buổi/ngày); giáo viên phải có chế độ làm việc cả ngày (8 giờ) theo đúng quy trình lao động của ngành nghề, nghiên cứu tài liệu, tiếp cận học sinh, nắm chắc tâm sinh lý lứa tuổi, hoàn cảnh, soạn bài, giảng bài, ra bài tập kiểm tra, chấm bài, chữa bài, đánh giá nhận xét từng học sinh chu đáo, đúng mực…thay vì chỉ đến trường theo giờ dạy, vì lao động của nhà giáo là lao động cao cấp, phức tạp, khác với các ngành nghề lao động giản đơn.



3. NGƯỜI THẦY VỚI VIỆC DẠY VÀ HỌC



3.1 Vinh quang nghề Thầy và sự dấn thân

Người Thầy luôn ở vị trí trung tâm trong lịch sử văn hoá dân tộc Việt. Nước ta là một nước văn hiến “tôn sư, trọng đạo. Người Việt hiếu học và có nhiều người Thầy tiêu biểu như Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp, Phan Chu Trinh, Nguyễn Hiến Lê, … Đó là những nhà giáo, nhà văn hoá bản lĩnh, tiết tháo “giàu sang không ham muốn, nghèo đói không thay lòng, uy vũ không khuất phục”, những gương danh nhân soi sáng muôn đời. Trong thời đại ngày nay và điều kiện Việt Nam, việc nhận thức sâu sắc vinh quang nghề Thầy và chấp nhận sự dấn thân “học không biết mệt, dạy không biết mỏi” để xứng đáng với danh xưng người Thầy là đặc biệt quan trong cho sự nghiệp đào tạo nhân tài và chấn hưng giáo dục.



Thầy tốt “lương sư hưng quốc” là nhân tố quyết định chất lượng và hiệu quả giáo dục trong nhà trường hiện đại. Ngày nay, một số ý kiến cho rằng vai trò người Thầy đã thay đổi, vì : 1) Vai trò của người học ngày càng chủ động, sáng tạo hơn, không còn phụ thuộc vào một chương trình học, kiến thức cố định, giáo trình, giáo án có sẵn. 2) Hàng loạt  phương tiện kỹ thuật công nghệ thông tin ra đời hỗ trợ đắc lực cho việc học; 3) Một số người dạy không đạt chuẩn vì phải lo việc mưu sinh trong thời kinh tế thị trường. 4) Danh xưng “người Thầy” đã bị lạm dụng, không chỉ là người “đức cao, học rộng,  trực tiếp giảng dạy” như trước đây (mà phạm vi sử dụng của từ “Thầy” nay đã mở rộng đến giới chức quản lý, giới chức văn hoá, văn nghệ sỹ, nhiếp ảnh, hoạ sĩ, nhạc sỹ, báo chí, phát thanh, truyền hình, người chủ trì hội chợ triển lãm, giám đốc phòng tranh,…). Trong bối cảnh đó, J. Hattie, chuyên gia giáo dục, đã dựa trên những dữ liệu nghiên cứu của hơn 50 triệu học sinh thuộc mọi lứa tuổi và nhiều lĩnh vực với mục đích nhằm xác định nhân tố chính quyết định chất lượng và hiệu quả giáo dục trong nhà trường hiện đại. Bà đã đi đến kết luận là: Ngay cả trong nhà trường hiện đại, với sự hỗ trợ mạnh mẽ của công nghệ thông tin, thì vai trò quyết định nhất đối với chất lượng giáo dục vẫn thuộc về các yếu tố liên quan trực tiếp tới người Thầy (J.Hattie, 2005, 2006). Nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác ở trên thế giới (trích dẫn bởi Christopher D. Sessums, 2006) và Việt Nam (TS. Nguyễn Thị Bích Hạnh, 2006) đều thống nhất với nhận định trên.



3.2. Chất lượng người Thầy trong tình hình mới

Để chấn hưng giáo dục đại học Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức, thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và kỹ năng giảng dạy tốt. Nâng cao chất lượng người Thầy là yếu tố cần hoàn thiện trước tiên kế đó là nâng cao chất lượng học viên. Sự đột phá cần nhắm thẳng vào ba việc chính, đồng bộ và liên hoàn: 1) tuyển chọn, đào tạo, thu hút và trọng dụng thầy tốt, rà soát tổ chức, quy hoạch nhân sự, đầu tư đồng bộ và hiệu quả cho một số đơn vị giảng dạy nghiên cứu trọng điểm phù hợp với định hướng chiến lược quốc gia và sâu sát với thị trường lao động, tập trung vào những vấn đề đất nước, vùng miền và cơ sở giảng dạy nghiên cứu có lợi thế so sánh; 2) cải tiến phương pháp dạy và học theo hướng “dạy và học tương tác” “học để làm” (learning by doing) cải tiến chương trình giảng dạy, xây dựng giáo trình chất lượng, sát thực tiễn,  ứng dụng công nghệ tin học và E-Learning vào dạy và học, bám sát và giải quyết những yêu cầu thực tiễn cấp bách của sản xuất đời sống; 3) quy hoạch, cải tạo, nâng cấp trọng điểm môi trường dạy và học để giáo dục và khoa học công nghệ thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Rèn nhân cách, nâng chuyên môn, luyện kỹ năng là ba khâu thiết yếu của người Thầy.


Nhiệm vụ dạy học là “dạy thái độ, dạy phương pháp, dạy nghề”. Trong đó, dạy phương pháp là quan trọng và cơ bản nhất trường đại học để phát triển trí tuệ của sinh viên, thúc đẩy việc giáo dục tư duy sáng tạo và năng lực hoạt động thực tiễn. Trường đại học là nơi đào tạo tập trung nguồn nhân lực chất lượng cao cho nhu cầu xã hội. Trong điều kiện bùng nổ thông tin, khoa học công nghệ phát triển thì kiến thức sinh viên tự học được từ gia đình, xã hội và truyền thông phong phú hơn những tri thức họ tiếp thu được từ bài giảng. Cho nên việc dạy thái độ ứng xử, phương pháp tìm tòi, cách hệ thống hóa tri thức, năng lực tư duy sáng tạo và hoạt động thực tiễn là rất quan trọng và cơ bản nhất trong dạy và học đại học. Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải DẠY VÀ HỌC. Cái gốc của sự học là HỌC LÀM NGƯỜI. Học ở đâu? Học ở trường, học trong sách vở, học lẫn nhau và học ở dân. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Thước đo lòng trung thành đối với tổ quốc và nhân cách của người trí thức là sự cống hiến đối với sản xuất đời sống và cộng đồng.



3.3 Nâng cao kỹ năng dạy học

Theo quan điểm sư phạm học tương tác thì hoạt động dạy học đại học là một hệ thống tương tác giữa bốn yếu tố: Thầy (Dạy) - Trò (Học) - Nội dung khoa học - Môi trường dạy học. Thầy và Trò là hai yếu tố động, là quan hệ cơ bản nhất tạo nên chất lượng của hệ thống dạy và học. Nội dung khoa học và môi trường dạy học là hai yếu tố tĩnh chi phối sâu sắc chất lượng và hiệu qủa của dạy và học. Muốn đạt được sự biến đổi về chất lượng và hiệu qủa giảng dạy đại học đòi hỏi phải tác động đồng bộ vào bốn yếu tố cấu trúc cơ bản này.
Hoạt động dạy của thầy và học của trò là hai thành tố trung tâm trong sự tương tác dạy và học. Thầy dạy tốt là yếu tố chủ đạo thúc đẩy cho việc trò học tốt. Thầy là người thiết kế và lựa chọn nội dung dạy, giới thiệu các nguồn tài nguyên phục vụ cho hoạt động học. Thầy cũng là người tạo nên động cơ, hứng thú của người học, mở đầu và kết thúc cho một quy trình dạy học. Trò học giỏi đến lượt mình lại đặt người Thầy vào trong mối quan hệ dạy và học tương tác, thúc đẩy người Thầy tiếp tục cải tiến phương pháp để phát huy cao độ tính chủ động và sáng tạo của người học, phát triển tư duy sáng tạo và năng lực hoạt động thực tiễn của sinh viên.



Người Thầy và phương pháp dạy học đại học là nhân tố đặc biệt quan trọng để hướng dẫn sinh viên tự học và tự nghiên cứu: 1) Hướng dẫn nhu cầu, động cơ học tập của sinh viên để thực hiện việc học một cách tự giác, làm phong phú thêm sự hiểu biết và hoàn thiện nhân cách bản thân; 2) Khích lệ sinh viên tích cực, độc lập, sáng tạo cao trong tổ chức và tự điều khiển hoạt động tự học phù hợp với khả năng và điều kiện của người học, đồng thời đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ học tập do hoạt động dạy học đặt ra; 3) Biểu dương sự nỗ lực ý chí cao của sinh viên biểu lộ trong việc kiên trì khắc phục mọi khó khăn để đạt đến đích sau cùng của việc học; 4) Thường xuyên đánh giá kiểm tra, điều chỉnh hoạt động tự học và nghiên cứu của sinh viên để đạt được việc học một cách tự giác, tích cực, độc lập và sáng tạo; 5) Khơi dậy và phát triển khả năng học và tự học của sinh viên, phát huy cả bốn yếu tố tạo thành hoạt động tự học (TS. Nguyễn Thị Bích Hạnh 2006). Nổ lực ứng dụng hiệu quả phương pháp dạy học mới: 1) Nâng cao năng lực tự học tự nghiên cứu của sinh viên, kỹ năng thực hành, làm việc nhóm, tìm kiếm và xử lý thông tin, trình bày, thảo luận, phát triển tư duy sáng tạo; 2) Tăng cường vai trò giảng viên đối với tự học, rèn luyện kỹ năng và phát triển tư duy sáng tạo của sinh viên; 3)  Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa họcđào tạo, tăng cường mối liên kết giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học; 4) Triển khai hiệu quả phương thức đào tạo theo tín chỉ.



Người Thầy với đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, sự tâm huyết và phong cách của mình đã ảnh hưởng trực tiếp và nêu gương sáng cho người học. Sức cảm hoá của  người Thầy vượt lên nhiều điều muốn nói. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Không Thầy đố mầy làm nên!” Câu nói này là sự trãi nghiệm lâu dài của một dân tộc, của một nền văn hoá lớn.



4. KẾT LUẬN



Bốn yếu tố cần nâng cao chất lượng trong dạy và học đại học là: Thầy (Dạy) - Trò (Học) - Nội dung khoa học - Môi trường dạy học. Hệ thống giải pháp đồng bộ, toàn diện, đồng thời để nâng cao chất lượng người Thầy và đổi mới phương pháp giảng dạy là yếu tố cần hoàn thiện đầu tiên. Học và tự học của sinh viên có mối quan hệ rất chặt chẽ tạo nên chất lượng của hệ thống dạy và học; môi trường dạy học và nội dung khoa học là hai yếu tố chi phối sâu sắc đến chất lượng và hiệu qủa của dạy và học.



Để chấn hưng giáo dục đại học Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức, thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và kỹ năng giảng dạy tốt. Nhiệm vụ dạy học là dạy thái độ, dạy phương pháp, dạy nghề, trong đó nhiệm vụ quan trọng và cơ bản nhất của người Thầy là dạy phương pháp phát triển trí tuệ cho sinh viên, giáo dục tư duy sáng tạo và năng lực hoạt động thực tiễn. Mục đích sau cùng của DẠY và HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc.



Ba giải pháp chính để nâng cao chất lượng dạy học đại học là: 1) tuyển chọn, đào tạo, thu hút và trọng dụng thầy tốt, rà soát tổ chức, quy hoạch nhân sự, đầu tư đồng bộ và hiệu quả cho một số đơn vị giảng dạy nghiên cứu trọng điểm phù hợp với định hướng chiến lược quốc gia và sâu sát với thị trường lao động, tập trung vào những vấn đề đất nước, vùng miền và cơ sở giảng dạy nghiên cứu có lợi thế so sánh; 2) cải tiến phương pháp dạy và học theo hướng “dạy và học tương tác” “học để làm” (learning by doing) cải tiến chương trình giảng dạy, xây dựng giáo trình chất lượng, sát thực tiễn,  ứng dụng công nghệ tin học và E-Learning vào dạy và học, bám sát và giải quyết những yêu cầu thực tiễn cấp bách của sản xuất đời sống; 3) quy hoạch, cải tạo, nâng cấp trọng điểm môi trường dạy và học để giáo dục và khoa học công nghệ thực sự trở thành quốc sách hàng đầu.



TÀI LIỆU THAM KHẢO

                 

1)     Ban Quản lý Dự án Giáo dục Việt Nam Hà Lan, 2011. Giáo dục đại học theo định hướng chuyên ngành tại các trường đại học của Việt Nam, Tài liệu dự án được xuất bản với sự hổ trợ từ Chính phủ Hà Lan, 24 trang.



2)     Nguyễn Thị Bình 2012: Giáo dục Việt Nam đi ngược quy luật Báo Điện tử Giáo dục.net 29/09/2012 http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Nguyen-PCT-nuoc-Nguyen-Thi-Binh-Giao-duc- Viet-Nam-di-nguoc-quy-luat/231324.gd



3)     Chính Phủ 2012. Chiến lược phát triển giáo dục 2011- 2020 (Ban hành kèm theo Quyết định số   711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6  năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ)



4)     Chính phủ 2003: Điều lệ trường Đại học. Ban hành theo Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg ngày 30/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ. 28 trang.



5)     Nguyễn Lân Dũng 2012. Thực trạng giáo dục và những kiến nghị, blog HỌC MỖI NGÀY http://hocmoingay.blogspot.com/2012/10/thuc-trang-giao-duc-va-nhung-kien-nghi.html



6)     Chu Hảo 2012. Chúng ta đang ở đâu trong thế giới này? Báo Điện tử Lifetv.vn 19/11/2012 http://lifetv.vn/news-view/gs-chu-hao-chung-ta-dang-o-dau-trong-the-gioi-nay



7)     Hoàng Kim 2009. Trường tôi và lòng thương yêu gửi lại của thầy Lưu Trọng Hiếu




8)     Hoàng Kim 2010. Thầy, bạn là lộc xuân của cuộc đời Blog Hoàng Kim http://hoangkimlong.blogspot.com/2010/11/thay-ban-la-loc-xuan-cua-cuoc-oi.html



9)     Huỳnh Công Minh 2012. Kỳ vọng và thất vọng về giáo dục. Báo Điện tử Giáo dục.net 2.10.2012 http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Ky-vong-va-that-vong-ve-giao-duc-Nguyen-GD-so-GD-TPHCM-len-tieng/232257.gd



10) Nguyên Ngọc 2012: Cần phản tư về nguyên nhân gốc của sự suy thoái văn hóa và giáo dục. Báo Điện tử Văn hóa Nghệ An 3.9.2012 http://vanhoanghean.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-nhin-van-hoa/4991-nha-van-nguyen-ngoc-can-phan-tu-ve-nguyen-nhan-goc-cua-su-suy-thoai-van-hoa-va-giao-duc-.html



11) Hoàng Tụy 2012. “Căn bệnh" tàn phá giáo dục Việt Nam. Báo Điện tử Giáo dục.net 12.11.2012 http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/GS-Hoang-Tuy-chi-dich-danh-can-benh-tan-pha-giao-duc-Viet-Nam/248803.gd



12) Hoàng Tụy 2012. Giáo dục đang đứng ở ngã ba đường Báo Điện tử Giáo dục.net 21.10.2012 http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/GS-Hoang-Tuy-Giao-duc-dang-dung-o-nga-ba-duong/239846.gd



13) Hoàng Tụy 2012: Nền giáo dục còn nhiều hạn chế  Báo Điện tử Dân Trí http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/gs-hoang-tuy-nen-giao-duc-con-nhieu-han-che-646183.htm



14) Hoàng Tụy 2012: Thay đổi tư duy giáo dục   Báo Điện tử Viet-Studies.info http://www.viet-studies.info/HoangTuy_TuDuyGiaoDuc.htm

15) Văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam 1996. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000; Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam Ngày 23/12/2003.


Em ơi em, can đảm bước chân lên


Nguyễn Khoa Tịnh

Thầy ước mong em
noi gương Quốc Tuấn


Đọc thơ em, tim tôi thắt lại 
Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng 
Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng 
Xót xa vì đời em còn thơ dại 
Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải 
Mới biết cười đã phải sống mồ côi 
Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi 
Như chiếc lá bay về nơi vô định 
“Bụng đói” viết ra thơ em vịnh: 

“Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai 
Có biết lòng ta bấy hỡi ai? 
Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng 
Kể chi no đói, mặc ngày dài” 


Phải! 
Kể chi no đói mặc ngày dài 
Rất tự hào là thơ em sung sức 
Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực 
Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang” 

“Trung dũng ai bằng cái chảo rang 
Lửa to mới biết sáp hay vàng 
Xào nấu chiên kho đều vẹn cả 
Chua cay mặn ngọt giữ an toàn 
Ném tung chẳng vỡ như nồi đất 
Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang 
Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão 
Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”


Phải! 
Lửa to mới biết sáp hay vàng! 
Em hãy là vàng, 
Mặc ai chọn sáp! 
Tôi vui sướng cùng em 
Yêu giấc “Ngủ đồng” 
Hiên ngang khí phách: 

“Sách truyền sướng nhất chức Quận công 
Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng 
Lồng lộng trời hè muôn làn gió 
Đêm thanh sao sang mát thu không 
Nằm ngữa ung dung như khanh tướng 
Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng 
Tinh tú bao quanh hồn thời đại 
Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong” 


Tôi biết chí em khi "Qua đèo Ngang” 
Ung dung xướng họa với người anh hùng 
Đã làm quân thù khiếp sợ: 

“Ta đi qua đèo Ngang 
Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm 
Đỉnh dốc chênh vênh 
Xe mù bụi cuốn 
Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ 
Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ 
Điệp điệp núi cao 
Trùng trùng rừng thẳm. 
Người thấy 
Súng gác trời xanh 
Gió lùa biển lớn 
Nông dân rộn rịp đường vui 
Thanh Quan nàng nhẽ có hay 
Cảnh mới đã thay cảnh cũ. 
Ta hay 
Máu chồng đất đỏ 
Mây cuốn dặm khơi 
Nhân công giọt giọt mồ hôi 
Hưng Đạo thầy ơi có biết 
Người nay nối chí người xưa 

Tới đây 
Nước biếc non xanh 
Biển rộng gió đùa khuấy nước 
Đi nữa 
Đèo sâu vực thẳm 
Núi cao mây giỡn chọc trời 

Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai 
Thương dân nước, thà sinh phận gái 
“Hoành Sơn cổ lũy” 
Hỏi đâu dấu tích phân tranh? 
Chỉ thấy non sông 
Lốc cuốn, bốn phương sấm động. 

Người vì việc nước ra đi 
Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế 
Điều không hẹn mà xui gặp mặt 
Vô danh lại gặp hữu danh 
Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau 
Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất 
Anh em ta ngự trên xe đạp 
Còn Người thì lại đáp com măng 
Đường xuyên sơn 
Anh hùng gặp anh hùng 
Nhìn sóng biển Đông 
Như ao trời dưới núi. 

Xin kính chào 
Bậc anh hùng tiền bối 
Ta ngưỡng mộ Người 
Và tỏ chí với non sông 
Mẹ hiền ơi! 
Tổ Quốc ơi! 
Xin tiếp bước anh hùng!” 


Hãy cố lên em! 
Noi gương danh nhân mà lập chí 
Ta với em 
Mình hãy kết thành đôi tri kỷ! 
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương 
Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em: 

"Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền 
Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên 
Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ 
Thương dân, yêu nước quyết báo đền 
Văn hay thu phục muôn người Việt 
Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên 
Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn 
Nối chí ông, nay cháu tiến lên!” 


Tôi thương mến em 
Đã chịu khó luyện rèn 
Biết HỌC LÀM NGƯỜI ! 
Học làm con hiếu thảo. 
Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo” 

Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo 
Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương 
Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp 
Giọng líu lo như chim hót ven đường. 

Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu 
Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn 
Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến 
Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!


Tổ Quốc đang chờ em phía trước. 
Em ơi em, can đảm bước chân lên!

1970