Thứ Ba, 20 tháng 12, 2011

Đèo Ngang những tuyệt phẩm thơ cổ

DẠY VÀ HỌC. “Trèo đèo hai mái chân vân. Lòng về Hà Tĩnh, dạ ân Quảng Bình”. Đèo Ngang là con đèo lịch sử đã đi vào ca dao, huyền thoại. Nhiều danh nhân- thi sĩ như Lê Thánh Tông, Nguyễn Thiếp, Vũ Tông Phan, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Bà huyện Thanh Quan ... đã lưu dấu tại đèo Ngang những tuyệt phẩm thơ. Đặc biệt, bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan rất nổi tiếng: "Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà / Cỏ cây chen đá, lá chen hoa / Lom khom dưới núi tiều vài chú / Lác đác bên sông rợ mấy nhà/ Nhớ nước đau lòng con quốc quốc / Thương nhà mỏi miệng cái gia gia / Dừng chân đứng lại trời, non, nước / Một mảnh tình riêng ta với ta." Nguyễn Văn Thích, Lý Văn Hùng đã có hai bản dịch bài thơ này ra chữ Hán. Hoàng Đình Quang có bài họa rất ấn tượng : "Thế sự mông lung lộn chính tà/ Quần hồng ghi dấu bậc tài hoa/ Sáu bài thơ cổ lưu tên phô. Nữa thê kỷ nay đánh số nhà/ Khanh tướng chắc gì nên vọng tộc/ Câu thơ còn đó lập danh gia/Chẳng bia, chẳng tượng, không đền miếu/ Ngẫm sự mất còn khó vậy ta." Trần Đăng Khoa cũng có hai câu cảm khái "Cái còn thì vẫn còn nguyên/ Cái tan dù tưởng vững bền cũng tan" . Còn đó đèo Ngang gánh hai đầu đât nước, niềm thương nhớ khắc khoải của những người con xa xứ. Còn đó Hoành Sơn, Linh Giang nơi ẩn chứa nhiều huyền thoại, lưu dấu những tuyệt phẩm thơ cổ còn mãi với thời gian.

DI LUÂN HẢI TẤN (1)

Lê Thánh Tông

Hoành Sơn tây vọng thị Di Luân
Diễu diễu bình sa tiếp hải tần
Yên thủy sa đầu phân dịch thứ
Phong đào giang thượng kiến quan tân
Tề diêm trường phố yêu thương khách
Lỗ tửu bồi bàn túy thị nhân
Dục phỏng Ma Cô bằng ký ngữ
Nam minh kim dĩ tức dương trần

CỬA ROÒN

Lê Thánh Tông

Tây Hoành Sơn thấy rõ Di Luân
Cát trải mênh mông tiếp biển gần
Sóng nước đá nhô xây trạm dịch
Gió sông sóng dựng lập đồn quan
Muối Tề sân phố mời thương khách
Rượu Lỗ quầy bàn tiếp thị dân
Muốn nhắn Ma Cô 2) nhờ hỏi giúp
Bụi trần Nam Hải có xua tan.

Trần Châu Báu Di Luân cẩn dịch

Ghi chú: Lê Thánh Tông trên đường chinh phục Chiêm Thành năm 1469; Di Luân : Cửa Roòn ngày nay; Ma Cô: Đền Liễu Hạnh công chúa phía nam Đèo Ngang tại xã Quảng Đông. Di tích kiến trúc, nghệ thuật tôn giáo được xếp hạng.


ĐÃ TRÓT LÊN ĐÈO PHẢI XUỐNG ĐÈO (2)

Nguyễn Thiếp

Đã trót lên đèo, phải xuống đèo
Tay không mình tưởng đã cheo leo
Thương thay thiên hạ người gồng gánh
Tháng lọn ngày thâu chỉ những trèo!

Vào khoảng đầu năm 1803, lúc Nguyễn Thiếp 80 tuổi, vua Gia Long đã triệu ông vào Phú Xuân để hỏi việc nước. Trên đường về, khi qua đỉnh đèo Ngang, ông đã cảm khái đọc bài thơ Nôm trên.


QÚA NINH CÔNG LŨY HOÀI CỔ (3)

Vũ Tông Phan

Nhược tương thử địa phân Nam Bắc,
Hà sự kinh niên động giáp bào?
Thiên tạo Hoành Sơn do vị hiểm,
Nhân vi cô lũy diệc đồ lao.
Doanh thâu để sự không di chủng,
Sát phạt dư thanh đái nộ đào.
Vũ trụ như kim quy nhất thống,
Mạc nhiên sơn thủy tự thanh cao.


QUA LUỸ NINH CÔNG NHỚ CHUYỆN XƯA

Vũ Tông Phan

Đất này ví thử phân Nam, Bắc
Hà cớ năm dài động kiếm dao?
Trời tạo Hoành Sơn còn chẳng hiểm,
Người xây chiến lũy tổn công lao.
Thắng, thua rốt cuộc phơi hoang mộ,
Thù hận dư âm rợn sóng đào.
Thiên hạ nay đà quy một mối
Non sông muôn thuở vẫn thanh cao.

Người dịch: Vũ Thế Khôi


ĐĂNG HOÀNH SƠN VỌNG HẢI (4)

Ngô Thì Nhậm

Tạo hóa đương sơ khổ dụng công,
Khước tương hổ huyệt xấn giao cung.
Hoàn vương phong vực qui ô hữu,
Trần đế tinh kì quải thái không.
Tình thụ thê cầm thương dục lão,
Nộ đào hí ngạc bạch thành ông.
Vô cùng kim cổ phù âu sự.
Phân hợp du du hạc mộng trung.

LÊN ĐÈO NGANG NGẮM BIỂN

Ngô Thì Nhậm

Bày đặt khen thay thợ hóa công,
Khéo đem hang cọp áp cung rồng.
Bóng cờ Trần đế dường bay đó,
Cõi đất Hoàn vương thảy biến không.
Chim đậu lùm xanh, xanh đã lão,
Ngạc đùa sóng bạc, bạc nên ông.
Việc đời bọt nổi, xưa nay thế,
Phân họp giành trong giấc hạc nồng

Bản dịch của Nguyễn Sĩ Lâm

Chú thích: Trần đế: Các vua đời Trần; Hoàn vương: Chiêm Thành; Giấc hạc: Giấc mộng hạc. Câu thơ ý nói cuộc tranh giành đất đai giữa Đằng Ngoài và Đằng Trong chẳng qua chỉ là giấc mộng trần thế sẽ tiêu tan.

QUÁ ĐÈO NGANG

Nguyễn Du

Họa Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn

Hoành Sơn sơn ngoại lĩnh nam trình
Cần kiếm tương thuỳ thướng ngọc kinh
Thỏ tuỷ vị hoàn tân đại dược
Báo bì nhưng luỵ cựu phù danh
Thương minh thuỷ dẫn bôi trung lục
Cố quốc thiềm tuỳ mã hậu minh
Thử khứ gia huynh như kiến vấn
Cùng đồ bạch phát chí tinh tinh

QUA ĐÈO NGANG

Nguyễn Du

Tiến về Nam qua đèo Ngang
Hành trình đầy đủ gươm đàn mang theo
Thuốc thần nào đã tới đâu
Mảnh da beo vẫn mối đầu lụy thân
Ánh mầu nước, chén rượu xanh
Dõi theo vó ngựa một vành trăng quê
Gặp gia huynh hỏi xin thưa
Đường cùng tôi gặp, tóc giờ điểm sương

Nguyễn Tâm Hàn phỏng dịch

Trich Hai Ông Tập: Họa vần bài thơ "năm Giáp Dần (1794), vâng mệnh vào kinh Phú Xuân, lúc lên đường lưu biệt các bạn ở Bắc Thành" của Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn. Đoàn Nguyễn Tuấn là con Đoàn Nguyễn Thục, đỗ Hương Cống đời Lê, có chiêu mộ người làng giúp Trịnh Bồng đánh Chỉnh, sau ra giúp Tây Sơn, làm đến chức Tả Thị Lang Bộ Lại, tước Hải Phái Bá. Có đi sứ Trung Quốc năm 1790 và có tập thơ nhan đề Hải Ông tập. Ông là anh vợ Nguyễn Du, hơn Nguyễn Du khoảng 15 tuổi.

ĐĂNG HOÀNH SƠN (4)

Cao Bá Quát

Sơn ngại thanh sơn vạn lý Trình,
Sơn biên dã thảo tống nhân hành.
Anh hùng mạc vãn thiên niên quốc,
Chinh chiến không tồn nhất lũy danh.
Bắc lĩnh đoạn vân thu túc vũ,
Nam trang sơ hiểu đái tân tình,
Há sơn phản giác đăng sơn khổ,
Tự thán du du ủy tục tình!

LÊN NÚI HOÀNH SƠN

Cao Bá Quát

Muôn dặm đường đi núi lẫn đồi,
Bên non cỏ nội tiễn đưa người.
Ai tài kéo nước nghìn năm lại ?
Trăm trận còn tên một lũy thôi.
Ải bắc mây tan mưa dứt hạt,
Thôn nam nắng hửng sớm quang trời.
Xuống đèo mới biết lên đèo khổ,
Trần lụy, sao đành để cuốn lôi ?

Người dịch: Nguyễn Quý Liêm


HOÀNH SƠN QUAN


Cao Bá Quát

Địa biểu lập sàn nhan,
Liêu phong đáo hải gian.
Bách niên khan cổ lũy,
Thiên lý nhập trùng quan.
Túc điểu sơ đầu thụ,
Qui vân bán ủng sơn.
Trì trì Tô Quí tử,
Cửu tệ vị tri hoàn.

ẢI HOÀNH SƠN

Cao Bá Quát

Non cao nêu đất nước,
Liền một dẫy ra khơi.
Thành cũ trăm năm vững,
Ải xa nghìn dặm dài.
Chim về rừng lác đác,
Mây bám núi chơi vơi.
Chàng Tô nấn ná mãi,
Tấm áo rách tơi rồi.

Bản dịch của Hóa Dân


QUA ĐÈO NGANG (5)

Bà huyện Thanh Quan

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.


BỘ ĐÁO HOÀNH QUAN

Bộ đáo Hoành Quan nhật dĩ tà,
Yên ba gian thạch, thạch gian hoa.
Tiều quy nham hạ, ta ta tiểu,
Thị tập giang biên, cá cá đa.
Đỗ vũ tâm thương, thanh quốc quốc,
Giá cô hồn đoạn, tứ gia gia.
Đình đình trữ vọng: thiên, sơn, hải,
Nhất phiến cô hoài, ta ngã ta.

Bản dịch chữ Hán của Nguyễn Văn Thích

QUÁ HOÀNH SƠN

Quá Hoành Sơn đỉnh tịch dương tà
Thảo mộc tê nham diệp sấn hoa
Kỳ khu lộc tế tiều tung yểu
Thác lạc giang biên điếm ảnh xa
Ưu quốc thương hoài hô quốc quốc
Ái gia quyện khẩu khiếu gia gia
Tiểu đình hồi vọng thiên sơn thuỷ
Nhất phiến ly tình phân ngoại gia

Bản dịch chữ Hán của Lý Văn Hùng

Hoàng Kim
Sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn

Tài liệu tham khảo:
1) Hoàng Kim 2008 < http://thovanhoangkim.blogspot.com/2008/01/o-ngang-v-nhng-tuyt-phm-th-c.html > dẫn liệu từ nguôn Wikimapia
2) Hoàng Kim 2007. Nguyễn Thiếp <http://danhnhanviet.blogspot.com/search/label/Nguy%E1%BB%85n%20Thi%E1%BA%BFp >
3) Hoàng Kim 2008 < http://thovanhoangkim.blogspot.com/2008/01/o-ngang-v-nhng-tuyt-phm-th-c.html > dẫn liệu từ nguồn: http://tranluc.net
4) Nguồn: Lương Sơn Thi Đàn <http://www.luongsonbac.com/. Cao Bá Quát.
5) Nguôn: Đào Trung Kiên (Thi Viện) <http://annonymous.online.fr/Thivien/> Bà huyện Thanh Quan

Đọc thêm
THUNG DUNG

Trở về trang chính

CÂY LƯƠNG THỰC; FOOD CROPS
Dạy và học ĐHNLHCM
Dạy và học BlogtiengViet
Gia đình nông nghiệp
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC

Thứ Tư, 7 tháng 12, 2011

Nếp nhà và nét đẹp văn hóa

DẠY VÀ HỌC. Nguyễn Trãi có câu “Nên thợ, nên thầy nhờ có học/ No ăn, no mặc bởi hay làm”. Làm và Học là hoạt động sống cơ bản của con người để đáp ứng nhu cầu tối thiểu ăn mặc, yêu đương, nhà ở, đi lại và chăm sóc sức khỏe. Chất lượng cuộc sống xét cho cùng là “sự phát triển tự do của mỗi người”. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm. GS. Hoàng Ngọc Hiến đã bình giảng khá hay về điều này. Nếp nhà là một bài viết rất đáng suy ngẫm của Nguyễn Khải. cùng với bài viết Cụ Hoàng Giáp dạy con của Vu Gia đã cho thấy nét đẹp văn hóa của những gia đình hạnh phúc

“ NÊN THỢ, NÊN THẦY” “NO ĂN, NO MẶC”

Hoàng Ngọc Hiến

Ngày nay có những quan điểm kinh tế, chinh trị của Mác đã trở nên lỗi thời, nhưng trong nguồn minh triết của tư tưởng của Mác có những viên ngọc quý càng ngày càng sáng giá. Tư tưởng quan trong nhất của minh triết Mác được trình bày minh xác trong câu văn nổi tiếng : “…sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người” (câu kết thúc chương 2 bản “Tuyên ngôn cộng sản”). Chủ bút báo “Kỷ nguyên mới”, một tuần báo xã hội chủ nghĩa Ý có nhờ Engels chọn trong toàn bộ trước tác cuả Mác một câu làm đề từ cho tờ báo, một câu “diễn đạt”được tư tưởng của chủ nghĩa xã hội tương xứng với câu nói của Dante được viết để định nghĩa “Kỷ nguyên cũ”: “ Một số người trị vì còn những người khác thì đau khổ”. Engels đã chọn câu nói trên để diễn đạt tư tưởng của “Kỷ nguyên mới”[i] Trong câu này được nhấn mạnh quyền tự do cao nhất của con người là tự do phát triển, những quyền tự do chinh trị (đi lai, ngôn luận, tin ngưỡng, hội họp…) tạo điều kiện cho sự tự do phát triển, chúng là những phương tiện, “tự do phát triển” mới là cứu cánh. “Tự do phát triển”, vậy thì phát triển cái gì? Đó là sự phát triên những “năng lực nhân tính” (Mác), còn gọi là những “năng lực bản chất của loài người” được chứa đựng ở con ngưới (cần hiểu năng lực nhân tính theo nghĩa rộng: biết nói, biết đi cũng là năng lực nhân tính, biết “nuôi con” ,biết “nựng”, biết âu yếm con – không phải người mẹ nào cũng làm được – là một năng lực nhân tinh cao quý không kém gì giỏi toán, giỏi ngoại ngữ, có tài năng nghệ thuật, có tài quản lý, lãnh đạo …; biết chơi, biết yêu là những năng lực nhân tính vĩ đại của con người, người chỉ biét làm không biết chơi là một ngươi bất hạnh, “không biết yêu” là một trong những nỗi bất hạnh lớn nhất đời người…).Trong câu của Mác được trích dẫn, từ-chìa khóa là “tự do phát triển”. Trong câu của Dante “Kỷ nguyên cũ” được định nghĩa bằng “sự trị vì” của một số người và “ sự đau khổ” của những người khác. Để định nghĩa “Kỷ nguyên mới” Mác đưa ra một thước đo hoàn toàn khác: “sự phát triển tự do “ của “mỗi người” và của “mọi người” Mác đã lấy thước đo này để phân loại những kiếp người, những sô phận con người: “ Một thiểu số được độc quyền phát triển,còn đa số những kẻ khác- do thường xuyên phải vật lộn để thỏa mãn những nhu cầu bức thiết – …thì bị tước đoạt bất kỳ khả năng phát triển nào”[ii] Số kiếp của toàn bộ một giai cấp có khi cũng được Mác xác định bằng thước đo này: sự phát triển được thực hiện ở một số ít cá nhân, trong khi đó “ đa số cá nhân và có những giai cấp toàn bộ bị hy sinh”[iii].Sự phát triển tự do những năng lực nhân tính ở “mỗi người” cũng như ở “mọi người”, đây là thước đo cơ bản của sự phát triẻn , học thuyết phát triển của chúng ta cần đặc biệt quan tâm.

Coi trọng sự phát triển tự do của “mỗi người” là coi trọng cá nhân. Và xem “sự phát triển tự do của mỗi người” là “diều kiện” cho “sự phát triển tự do của mọi người”, phải chăng là có sự ưu tiên dành cho sự phát triển của cá nhân ? Dù thế nào đi nữa thì sự phát triển tự do của “mỗi người” bao giờ cũng “ liên đới một cách tất yếu với sự phát triển tự do của mọi người”[iv] Tính “liên đới” ở đây là tinh thần trách nhiệm, là lòng kính trọng phải có của cá nhân đối với những cá nhân khác và đối với cộng đồng.

Sự phát triển những năng lực nhân tính đòi hỏi những điều kiện tối thiểu. Mác đã nêu lên những điều kiện này trong một câu đã được trích dẫn ở trên: “…đa số những kẻ khác – do thường xuyên phải vật lộn để thỏa mãn những nhu cầu bức thiết – …thì bị tước đoạt bất kỳ khả năng phát triển nào”.Nói một cách nôm na, suốt ngày, quanh năm, …suốt đời phải vật lộn kiếm “miếng cơm, manh áo” thì làm sao mà phát triển được! “Những tư tưởng lớn gặp nhau.”. Cũng như Mác, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Nam Cao… đều đặt sự phát triển những năng lưc nhân tính như là mục tiêu cao nhất, mục tiêu tối hậu của sự làm người nhưng không bao giờ quên chuyện “ cơm áo

Nguyễn Trãi:

Nên thợ nên thầy vì có học
No ăn no mặc bởi hay làm
(bài thơ số 173 trong tập “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi)

Vẻn vẹn trong hai câu thơ được đặt ra những vấn đề và những yêu cầu cơ bản nhất của cuộc sống làm người : “làm”và “học”, “no ăn no mặc”,“nên thợ nên thầy”. “No ăn no mặc” là điều kiện tối thiểu để phát triển, “nên thợ nên thầy” là sự đòi hỏi phát triển những năng lực nhân tính. Trong quan niệm truyền thống, “học” được gắn với những yêu cầu “thông kinh thuộc sử”, “khoa danh hoạn lộ”. Ở đây, “học” được gắn với “nên thợ nên thầy”, không có sự phân biệt năng lực“làm thợ”, năng lực “làm thầy”, đó là một tư tưởng giáo dục học vĩ đại của Nguyễn Trãi

Hồ Chí Minh:

“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.

Trong cấu trúc lý tưởng nhân văn này của Hồ Chí Minh, sự phát triển những năng lực của con người thông qua “học hành” là mục tiêu cuối cùng. Nhưng muốn thực hiện mục tiêu này thì phải có “độc lập ,tự do”,có “cơm ăn, áo mặc”. Có một sự tương đồng khá rõ giữa lý tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi và lý tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh.Cả hai vĩ nhân này đều là sự hiện thân của tinh thần đấu tranh cho “độc lập, tự do”,đều đặt lên hàng đầu nhu cầu “cơm ăn, áo mặc” – điều kiện tối thiểu cho sự phát triển và sự “học hành” – hoạt động cơ bản phát triển những năng lực nhân tính của con người.

Nam Cao là tác gia hiện đại có những cảm hứng nhân văn gần gũi hơn cả với minh triết chủ nghĩa Mác.Cảm hứng này được bộc lộ trong những suy nghĩ day dứt của Thứ về cách sống và lẽ sống làm người: “Thứ – tác giả viết – không thể nào chịu được rằng sống chỉ là làm thế nào cho mình, vợ con mình có cơm ăn áo mặc thôi. Sống là để làm cái gì đẹp hơn nhiều, cao quí hơn nhiều.Mỗi người sống phải làm thế nào cho phát triển đến tận độ những khả năng của loài người chứa đựng trong mình”[v]… (H.N.H. tô chữ đậm). Sau đây là mấy câu đối thoại giữa Thứ và Sang, một trong những đoạn đối thoại hay nhất trong truyện Sống mòn :

“Y mỉm cười chua chát hỏi San: – Nếu gia đình anh có cách sinh nhai chắc chắn rồi, anh chỉ nghĩ đến anh thôi, thì anh sẽ làm gì? – Tôi học vẽ, tôi thích vẽ ngay từ hồi mười ba, mười bốn tuổi.Ông giáo nào cũng phải để ý đến cái khiéu vẽ của tôi và bắt tôi vẽ những bức tranh trong lớp. Giá tôi được học, chắc chắn tôi có thể thành họa sĩ”[vi]

Hóa ra ở một con người tầm thường và phàm tục như San,nhà văn Nam Cao không nỡ tước bỏ khát vọng nhân văn phát triển những mầm mống tài năng, một sự phát triển vô tư, không vụ lợi, hoàn toàn theo sở thích, sở trường riêng của mình.Trong cuộc sống của San, dạy học chỉ là hoạt động sinh nhai vì “miếng cơm manh áo” cho “mình và vợ con mình”, đó là hoạt động trong “vương quốc của sự tất yếu” (Marx), “chưa thoát khỏi xiềng xích của cái đói và cái rét” (Nam Cao); “vẽ”, đó là sự phát triển tự do của San, là hoạt động trong “vương quốc của tự do”.Ở trên có dẫn ý kiến của Marx về bi kịch của đa số người lao động trong xã hội cũ: chừng nào con người còn phải vật lộn để thỏa mãn những nhu cầu bức thiết nhất thì chưa thể nói đến sự phát triển.Nam Cao đã đề cập đến vấn đề này qua những suy nghĩ hằn học của nhân vật Thứ về kiếp sống của y “khao khát muốn lên cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất”: “…Sao mà cái đói nó tù túng, nó chật hẹp, nó bần tiện thế! Không bao giờ dám nhìn cao một tí. Chỉ những lo ăn ,lo mặc. Hình như tất cả nguyện vọng, tất cả mong ước, tất cả mục đích của đời chúng mình chỉ là mỗi ngày hai bữa. Bao nhiêu tài trí,sức lực,lo tính đều dùng vàoviệc ấy…Lúc nào cũng lo chết đói, lúc nào cũng la làm thế nào cho không chết đói…”[vii]

[i] Xem K.Marx và F.Engels. Tác phẩm (bản tiếng Nga)t.29,tr.28
[ii] Nhưtrên,t.3,tr.4
[iii] Như trên,t.26,phần II, tr.123
[iv] Như trên,tập 3,tr.441
[v] Nam Cao.Sống mòn .1963.tr.202
[vi] Như trên , tr.202
[vii] Như trên, tr. 113

NẾP NHÀ

Nguyễn Khải

“Theo bà cụ, thời bây giờ có được vài trăm cây vàng không phải là khó, cũng không phải là lâu, nhưng có được một gia đình hạnh phúc phải mất vài đời người, phải được giáo dục vài đời. Hạnh phúc không bao giờ là món quà tặng bất ngờ, không thể đi tìm, mà cũng không nên cầu xin”.
1
Mỗi lần ra Hà Nội việc đầu tiên là tôi phải tới thăm bà cô tôi. Chẳng có quà cáp gì cả, đến tay không, nhưng vẫn cứ phải đến. Vì bà là cái túi khôn của tôi mà. Năm nay các con bà sẽ làm lễ mừng thọ mẹ tám mươi tuổi. Các cụ nói: Năm mươi tuổi hiểu được mệnh trời. Người tám mươi tuổi lại vẫn minh mẫn, khôn ngoan, không chừng hiểu được cả then máy của Tạo hóa. Nói chuyện với bà tôi vẫn chờn chợn như ngày nào được hầu chuyện cụ Nguyễn. Nghĩa là vẫn phải uốn lưỡi trước khi hỏi, trước khi trả lời. Một ngôi nhà đẹp, một cửa hàng tuyệt vời ngay giữa một đại lộ trung tâm trông thẳng ra hồ Hoàn Kiếm mà chỉ bày bán lèo tèo mấy mặt hàng sơn mài, tượng gỗ thì uổng quá, coi khinh thiên hạ quá. Bà cụ cười: “Anh đã bắt đầu có con mắt thương mại rồi đấy nhỉ?” Con mắt thương mại thì chả dám nhưng với con mắt của người bây giờ thì ngôi nhà, nói cho chính xác hơn là miếng đất, của bà cô tôi cũng phải đáng giá một triệu…, tất nhiên là triệu đô. Cũng chả phải do mình đặt giá mà là đại diện các công ty nước ngoài tới trả giá. Ngày nào cũng có vài nhóm người tới hỏi nhưng bà cụ chỉ nhã nhặn trả lời: “Tôi không có ý định bán hoặc cho thuê cái nhà này.” Cho thuê cũng nhiều tiền lắm. Đã có người hỏi thuê chỉ mấy chục mét vuông của gian ngoài thôi, mỗi tháng trả năm ngàn đô, trên mười cây vàng. Vẫn là không, không bán mà cũng không cho thuê. Tại sao cụ lại gàn thế? Vì các em anh không muốn thế, cho đến hôm nay chúng nó vẫn đi làm cho nhà nước, không buôn bán gì cả, không mánh mung gì cả. Lương tiêu không đủ thì tôi bù. Bán các mặt hàng vớ vẩn như anh nói nhưng mỗi tháng cũng kiếm được khoảng trên dưới dăm triệu. Này, dăm triệu không phải là ít đâu anh nhá! Theo tôi được biết, từ trẻ đến già cô tôi sống theo một số nguyên tắc, thời thế có thể thay đổi nhưng cách sống của bà dứt khoát không thay đổi. Đó là: sống thẳng thắn, sống lương thiện và sống theo pháp luật hiện hành. Những năm Pháp tạm chiếm Hà Nội, chú tôi vẫn mở trường dạy học tư như thời trước, còn cô tôi ấn hành sách giáo khoa cấp tiểu học do chú tôi soạn. Có một tác giả đưa tập thơ “Đồi thông hai mộ” bán cho bà. In tập thơ đó chắc chắn sẽ thu lãi nhiều, bà biết thế nhưng vẫn từ chối. Vì Nhà xuất bản Nguyễn Du do bà chủ trương chỉ in có sách giáo khoa, đúng như trong giấy phép. Năm 56, cán bộ thuế tới kiểm tra kho giấy của bà để đánh thuế tồn kho, khoảng hai chục triệu. Chú tôi tính vốn nhát, vui vẻ bằng lòng ngay. Cho đỡ phiền. Nhưng bà vợ không chịu vì giấy in sách giáo khoa xưa nay không phải đóng thuế. Đã được miễn thuế thì làm gì có thuế tồn kho. Bà bướng bỉnh đến nguy hiểm, ai cũng sợ nhưng bà vẫn thản nhiên: “Lý của mình đúng, việc gì phải sợ”. Quả nhiên bà đúng thật. Bà luôn luôn đúng vì bà rất tỉnh táo trong mọi mối quan hệ, chỉ nhận những gì đáng có, có quyền được có, tuyệt đối không để bị dụ hoặc về tiền bạc cũng như về tình cảm. Một cái đầu hơi lạnh, lắm lúc tôi đã nghĩ về bà như thế. Nói cho ngay, nếu không có cái đầu lạnh làm sao bà giữ nổi một ngôi nhà quá ngon lành, quá quyến rũ trong bấy nhiêu năm, không gặp một chuyện rắc rối nào. Cho đến bây giờ đã sang tuổi tám mươi bà vẫn biết từ chối những đồng tiền rất hợp pháp ắt hẳn phải có một tính toán khôn ngoan nào đó. Cái khôn ngoan cao siêu chứ không phải là khôn vặt.
2
Mùa xuân ở Hà Nội bao giờ cũng đẹp. Với tôi đã nhiều năm không được sống ở Hà Nội vào mùa xuân lại càng thấy đẹp. Một chút lạnh trong hơi gió tạt qua mặt. Một chút mưa bụi bay lây rây như có như không. Trời hơi tối, mặt đường hơi sẫm nhưng mặt người và quần áo rét họ mặc cứ sáng bừng lên những mầu sắc tươi tắn. Đã có mùi son phấn và nước hoa bất chợt thoảng qua ở một góc phố, trong một đám đông. Nói nhỏ đi, cười nhỏ hơn, ít nghe những câu chửi tục, những tiếng đệm tục. Giàu hơn trước nhiều, sang hơn trước nhiều, cứ cho là bề ngoài thì cũng vẫn rất đáng mừng. Chỉ có nhà bà cô tôi là ít thay đổi, hầu như không thay đổi. Vẫn mấy chiếc xe máy đã cũ, và vẫn còn nhiều xe đạp, loại xe đạp cà tàng từ những năm nào. Trời nắng các em đi xe máy, trời mưa đi xe đạp, đỡ phải rửa xe. Ăn mặc của bà cụ, của các em cũng chả có gì sang hơn, như trước đây, ngày trước với Hà Nội đã là sang, bây giờ là quá thường. Bây giờ con gái Hà Nội mặc quần chẽn đen, gót xẻ, có dải buộc dưới bàn chân, mặc măng tô lửng, hoặc đi bít tất đen dài, quần cộc, áo vét trùm qua mông. Đàn ông cũng diện lắm, áo vét tông các kiểu, thắt cà vạt đủ mầu, giầy đen, cứ như họ từ các đại sảnh bước ra. Không phải đâu, chỉ là quần áo thường ngày thôi, cũng giống như trước kia họ mặc áo bông xanh, quần ka ki vàng và đi dép nhựa. Chưa bao giờ tôi thấy người Hà Nội ăn mặc sang trọng như bây giờ. Chưa bao giờ tôi thấy phố xá chói lòa những tủ kính, những bảng hiệu và ánh sáng như bây giờ. Vậy mà một nhà giàu của Hà Nội có dư điều kiện để thay đổi lại không chịu thay đổi. Một đại gia đình gồm hai con trai, hai con dâu, một gái, một rể và những đứa con của họ vẫn sống chung dưới một mái nhà, ăn chung một bếp ăn. Thiên hạ thì chia ra, bà cụ lại gom vào. Vẫn rất êm thấm mới lạ chứ. Nếp nhà đã thắng được tự do của cá nhân sao? Phải nói thêm, cái nếp nhà này cũng ít ai theo kịp. Người con dâu cả vốn là con gái Hàng Bồ, đỗ đại học, là một cô gái kiêu hãnh, tự tin, không dễ nhân nhượng. Ai cũng nghĩ hai người đàn bà, một già một trẻ, cùng sắc sảo sẽ rất khó chấp nhận nhau. Vậy mà họ ăn ở với nhau đã mười lăm năm chả có điều tiếng gì. Người chị của cô con dâu đến nói với bà cô tôi: “Bác chịu được tính nó thì con cũng phục thật đấy”. Bà cải chính: “Đúng là tôi có phần phải chịu nó nhưng nó cũng có phần phải chịu tôi, mỗi bên chịu một nửa”. Bà bảo, con dâu là vàng trời cho, mình không có công đẻ ra nó, cũng không nuôi nó ăn học ngày nào, bỗng dưng nó về nhận mình là mẹ, sinh con đẻ cái cho dòng họ, cáng đáng mọi việc từ trẻ đến già, không lễ sống nó thì thôi còn hoạnh họe nỗi gì. Bà chiều quý, và tôn trọng các con dâu thật lòng nên cả hai nàng dâu đều tâm sự với mẹ chồng: “Con ở với mẹ còn thoải mái hơn ở nhà với mẹ con”. Con rể và con gái được nhận nhà ở một khu tập thể, nhà chật, lại xa, con còn nhỏ. Nhưng anh con rể không muốn nhờ vả mẹ vợ, tự mình cũng thấy không tiện mà người ngoài nhìn vào càng không tiện. Bà biết thế nên bảo con rể: “Trong cái nhà của tôi có một phòng dành cho vợ anh. Của vợ anh tức là của anh. Cũng như mọi thứ của anh tức là của vợ anh. Chẳng lẽ anh bảo không phải”. Năm ngoái khu phố có yêu cầu bà cụ báo cáo về nếp sống gia đình cho hàng phố học tập. Bà từ chối, khi tôi lại thăm, bà nói riêng: “Cái chuyện ấy ai cũng biết cả, chỉ khó học thôi”. Tôi cười: “Lại khó đến thế sao?” Bà cụ nói: “Trong nhà này, ba đời nay, không một ai biết tới câu mày, câu tao. Anh có học được không?” À, thế thì khó thật. Theo bà cụ, thời bây giờ có được vài trăm cây vàng không phải là khó, cũng không phải là lâu, nhưng có được một gia đình hạnh phúc phải mất vài đời người, phải được giáo dục vài đời. Hạnh phúc không bao giờ là món quà tặng bất ngờ, không thể đi tìm, mà cũng không nên cầu xin. Nó là cách sống, một quan niệm sống, là nếp nhà, ở trong tay mình, nhưng nhận được ra nó, có ý thức vun trồng nó, lại hoàn toàn không dễ.
3
Trở lại câu chuyện cũ, tại sao bà cụ không chịu bán nhà, chia tiền cho các con để họ lập cơ nghiệp riêng? Lớn rồi thì phải ở riêng, nó thuận lợi với sự phát triển. Con cái đã trưởng thành, vẫn bắt ở chung, ăn chung như trại lính, đâu có phải chuyện tính toán khôn ngoan. Bà cụ nghe tôi nói cười tít cả mắt, ra cái vẻ mọi sự bà đã tính cả rồi, đâu có đợi một thằng nhà văn ngây ngô mách nước. Bà nói, hiện nay các con bà vẫn thích đi làm cho nhà nước bằng cái nghề chuyên môn đã được đào tạo của mình. Ngoài giờ đi làm thì bọn nó đọc sách, dạy con học, bù khú với bạn bè. Họ thích sống như thế và có điều kiện để sống nhàn nhã như thế. Họ không có óc kinh doanh, không có nhu cầu phải kinh doanh. Không cần đến tiền thì không nên một lúc cầm quá nhiều tiền. Đồng tiền do may mắn mà có, do thời thế đổi thay mà có rất dễ là mầm mống của nhiều tai họa. Vì người có tiền chưa kịp học cách tôn trọng đồng tiền, sai khiến đồng tiền. Ở cái nhà này, theo tôi biết, chưa bao giờ họ mua vé số. Cũng không thờ cúng ông thần bà thánh nào, ngoại trừ ngày giỗ để anh em con cháu có dịp gặp gỡ nhau. Họ không cầu gặp may mắn, không săn đón may mắn. Họ chỉ nhận những cái đáng nhận. Bà cụ vẫn đi lễ các chùa miếu đền phủ với bạn bè nhưng bà không khấn. Bà cũng chưa từng xem tướng, xem bói, xin xăm. Ngày chú tôi mất mọi việc hậu sự chỉ một mình cô tôi lo liệu, không hỏi han bất cứ ai, không xem giờ xem ngày gì cả. Việc cưới xin của các con cũng thế. Đưa con gái đi, đón con dâu về tuyệt đối không có xem tháng xem ngày. Trong một lần trò chuyện, bà hỏi tôi: “Anh có phân biệt được người giàu lương thiện và kẻ giàu bất lương không?” “Trong bao lâu?” “Trong một lần tiếp xúc” “Thế thì khó!” Bà bảo, bà vẫn phân biệt được. Những đứa giàu lên do cướp đoạt, lừa đảo nói chuyện một lúc là biết. Bọn họ khinh người rẻ của lắm. Họ không tin một ai cả, càng không tin còn có lòng tốt ở đời. Họ chỉ tin có tiền. Tiền là quân của họ. Một đội quân giặc cướp, sẵn sàng tàn phá tất cả, tiêu diệt tất cả để đạt được những cái đích phù phiếm của chủ nó. Bà nói, bà là người biết quý trọng đồng tiền từ trẻ tới già, nhưng mấy năm gần đây bà lại sợ tiền. Nghe chuyện của thiên hạ mà sợ. Càng ít sờ mó tới tiền càng tốt. Nó có độc đấy! Bàn tay thương vợ, bàn tay yêu con, bàn tay nắm bàn tay của bạn bè đếm mãi tiền nhiễm độc lúc nào không hay, sẽ không còn là bàn tay của người nữa. Vì lẽ đó mà bà chưa muốn bán nhà. Các con bà cũng không ỷ eo, nài ép bà phải bán nhà. Thế là may. Nhưng cái may này còn kéo dài được bao lâu? Bà vốn không tin vào sự may rủi. Bà chỉ tin vào sự chuẩn bị của mình, chuẩn bị trong cái khả năng có thể, chứ liệu hết thế nào được những việc của chục năm sau.
4
Bữa tôi sắp trở vào thành phố Hồ Chí Minh, tôi có lại chào bà. Cũng như mọi lần tôi nói nửa vui nửa buồn: “Mong cô khỏe mạnh mãi để mỗi lần ra, cô cháu mình có dịp bàn chuyện thế sự, văn chương”. Bà cụ cười rất hồn nhiên! “Nếu được sống thêm mươi năm nữa thì vui lắm đấy. Nhưng mà khó”. Vì biết là khó nên ngay từ năm ngoái bà đã làm chúc thư, phòng khi đột nhiên phải ra đi thì các con đã có cẩm nang hành động. Làm chúc thư là khó lắm, sống làm sao chia của làm vậy. Chia khéo thì trai gái dâu rể mãi mãi là con của mình, mãi mãi là anh em ruột thịt của nhau. Chia vụng thì xẻ đàn tan nghé ngay tức khắc, càng đông con cháu càng lắm mối họa. Trước hết bà gặp riêng năm người con của mình vào một buổi, con dâu con rể không được tham dự. Nguyên tắc làm chúc thư của bà là công khai và công bằng, không phân biệt trai gái, trưởng thứ. Tài sản chia làm sáu phần bằng nhau, năm con năm phần, mẹ một phần. Phần của mẹ hoặc gửi ngân hàng, hoặc đem kinh doanh, tùy, số lãi hàng năm lại chia làm sáu. Con trai đầu phải giữ việc hương khói được nhận hai phần. Bốn phần còn lại sẽ bỏ vào một quỹ riêng để chi các việc: Tu bổ nhà thờ, sửa sang phần mộ, góp giỗ tết với các chi khác và cấp đỡ cho bà con nghèo của hai họ nội ngoại. Đồ gỗ và đồ sứ trong nhà thì cho hai con trai. Đồ trang sức của mẹ thì cho ba con gái. Sau buổi họp bà cụ phân công cho con gái lớn viết lại chúc thư làm sáu bản, viết tay không đánh máy, cả sáu người đều ký, mỗi người giữ một bản, có giá trị trước pháp luật. Từ nay bán nhà hay cho thuê nhà bà cụ coi như không biết, đám thừa kế cứ theo nguyên tắc chia sáu mà xử sự. Bà cụ nói xong, nhìn tôi một lúc lâu rồi bà cười rất ý nhị:- Con người ta ai ai cũng có phần thiện phần ác. Muốn dưỡng thiện diệt ác thì trong nhà phải có gia pháp, ngoài xã hội phải có luật pháp. Trong gia pháp có phần truyền thống và danh dự của dòng họ, có phần đạo đức của người trên và nghĩa vụ của kẻ dưới. Gia pháp cũng phải theo thời mà điều chỉnh, quá ngược với thời thế thì con cháu khó theo, quá xu mị thời thế thì bỏ mất gốc rễ. Theo chỗ tôi biết gia pháp của nhiều danh gia vọng tộc ở Hà Nội đang gặp hồi khủng hoảng. Suốt mấy chục năm anh dạy các con anh khinh miệt đồng tiền, lên án tư hữu và những người giàu có đều là phần tử bất hảo. Bây giờ anh tính sao? Bây giờ các con anh đều lao vào kiếm tiền, đều nuôi mộng làm triệu phú tỷ phú trong chớp mắt. Khốn một nỗi chúng lại chưa từng được ai dạy bảo cái cách ăn ở với đồng tiền. Đồng tiền vừa là đày tớ vừa là ông chủ, vừa là bạn đường vừa là giặc cướp, các con anh biết chọn cách nào? Chúng chỉ biết lựa chọn theo trực giác, theo kinh nghiệm tức thì, theo lợi ích trước mắt. Anh nghĩ xem, đã đến thế thì con người và nền văn minh của con người đã bị chúng gạt khỏi mọi sự tính toán rồi.
5
Mấy hôm trước trời ấm nhưng hơi nồm, chỗ nào cũng lép nhép nhầy nhụa đến khó chịu. Đêm như có mưa, hơi nặng hạt thì phải, hạt mưa gõ trên mái ngói nghe rất rõ. Sáng ra tất cả đã ráo khô, mảnh sân trắng toát, hè nhà trắng toát, trời khô và lạnh. Cái lạnh của mùa xuân thật dịu dàng, thở rất dễ, người rất nhẹ, mặc một cái áo len mỏng, khoác thêm một cái áo ngoài, đạp xe ra đường nhìn vào cái gì cũng đẹp. Huống hồ bây giờ Hà Nội lại đang đẹp, mỗi ngày một đẹp ra, trẻ ra. Lắm lúc nghĩ cũng tiếc đã trót đưa vợ con vào sống trong Sài Gòn. Tiếc thì tiếc chứ không thể làm lại được. Một chân đã thõng vào cõi hư vô rồi thì không nên bắt đầu bất cứ việc gì nữa. Không còn cả thì giờ để ganh ghét, để hờn giận. Chỉ còn đủ thời gian để làm lành, có thua thiệt vẫn cứ nên làm lành. Văn chương làm lành cố nhiên là không hay rồi, thôi kệ, vì cũng chả còn hơi sức đâu gây sự, dầu chỉ là gây sự vặt. Tôi đạp xe thong thả dọc đường Phan Đình Phùng bất chợt gặp một ông già khoảng tuổi tôi chạy bộ buổi sáng từ đường Cổ Ngư về. Ông chạy bên kia đường, tôi đạp xe bên này đường, lại có một thằng cha cưỡi xe Dream chạy chậm cùng chiều với tôi. Bỗng thấy hắn hét lên: “Chạy lộn đường rồi! Văn Điển đi lối kia cụ ơi!” Ông già đứng sững lại, thằng cha vừa hét quay mặt lại nhìn tôi nhăn răng cười. Chớ có ngạc nhiên! Rác của Hà Nội đấy! Hàng hóa nhiều tất nhiên rác rưởi phải nhiều chứ nghèo quá, đói quá lấy đâu ra rác.

http://thuvien.maivoo.com/Truyen-ngan-c1/Nep-Nha-d1245

CỤ HOÀNG GIÁP DẠY CON

Từ những lời dạy sâu sắc, chân tình và gần gũi của cụ Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm mà đời con, đời cháu của cụ có nhiều người thành đạt, giúp ích cho đời

Biết tôi viết thư pháp chữ Hán không đến nỗi nào, chị Nguyễn Thị Dư Khánh (nguyên cán bộ giảng dạy Trường Cao đẳng Sư phạm TPHCM) nhờ tôi viết mấy chữ: Tôn tộc đại quy / Tôn lộc đại nguy / Tôn tài đại thịnh / Tôn nịnh đại suy. Rất có ý tứ, rất tâm huyết mà không kém phần hào sảng, tôi cho rằng trong gia đình thì chẳng nên treo mấy chữ này vì không phù hợp.

Chị cho hay trong cuộc gặp gỡ các tiến sĩ tân khoa, khi vua Thành Thái đề nghị mỗi người hãy góp kế sách giúp nước thì bố chị cô đúc mấy câu ấy. Thì ra, chị là con gái cụ Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm (1889 – 1954).

Anh ruột của chị là nhà văn hoá – bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, GS Nguyễn Khắc Dương (nguyên Khoa trưởng Văn khoa Đại học Đà Lạt trước 30-4-1975), GS Nguyễn Khắc Phi (nguyên Tổng Biên tập Nhà xuất bản Giáo dục), kỹ sư – nhà văn Nguyễn Khắc Phê…

Một cách dạy con

Cụ Nguyễn Khắc Niêm lúc 17 tuổi đã đỗ cử nhân, 18 tuổi đỗ đầu khoa thi Hội (Thành Thái thứ 19, năm 1907), sắc ban “Đệ nhị giáp tiến sĩ” nên gọi là Hoàng Giáp.

Cụ từng giữ chức Tư nghiệp Trường Quốc Tử Giám (Huế), Đốc học Nghệ An, Phủ Doãn Thừa Thiên, Tổng đốc Thanh Hoá, đến tháng 2-1942 thì xin về hưu trước tuổi.

Vì vậy, tôi đề nghị chị Dư Khánh cho bản chữ Hán tôi mới dám viết chứ chữ nghĩa cụ Hoàng Giáp mà viết sai thì thật là thất lễ. Mấy ngày sau, chị mang tặng tôi cuốn Cụ Hoàng Niêm đất Hương Sơn (Nhà Xuất bản Thuận Hoá, năm 2007).

Mấy chữ này được Trần Đại Vinh dịch: Tôn trọng nòi giống, ắt đại hoà hợp / Tôn trọng bổng lộc, ắt đại nguy nan / Tôn trọng tài năng, ắt đại phồn thịnh / Tôn trọng siểm nịnh, ắt đại suy vong. Dù kế sách được cụ ứng khẩu nhưng đó là tâm huyết của một đời và triều đại nào cũng cần thế cả.

Bốn người con cụ Hoàng Giáp (từ phải qua): GS Nguyễn Khắc Dương, GS-Nhà văn hoá Nguyễn Khắc Viện, GS Nguyễn Khắc Phi, Nhà văn Nguyễn Khắc Phê.
Ảnh: TƯ LIỆU GIA ĐÌNH

Lớp con cháu cụ hiện nay ai cũng thành đạt, được nhiều người kính trọng. Có phải nhờ nếp nhà? Tôi không muốn hỏi con cháu vì có ai không muốn nói tốt về ông cha mình.

Để hiểu nếp nhà này, tôi lần tìm từ tư liệu của cụ được in trong cuốn Cụ Hoàng Niêm đất Hương Sơn. Có lá thư cụ Hoàng Giáp gửi cho con trai (Nguyễn Khắc Viện) đang du học ở Pháp:

“Cher Viện,

Những cái thư con viết kỳ tháng 5-48, tháng 6-49, và cái thư con viết cho em Phương Thảo kỳ tháng 9-49, thầy đều tiếp được cả, biết rằng con ở bên ấy nay đã lành mạnh và có học hỏi thêm được nhiều, thầy và tất cả bà con lấy làm mừng lắm (…). Con cứ chăm bề bảo dưỡng sức khoẻ, không nên làm việc quá chừng, để cho được thiệt lành mạnh, nay mai về nước, đưa một ít tài học giúp vào công cuộc kiến thiết nước nhà, cho thoả lòng trông đợi của thầy, của bà con và của bạn bè, như lời con đã hứa trong thư trước, ấy là một điều nguyện vọng duy nhất của thầy trong lúc già cả này”.

Qua trích dẫn trên, thấy rằng cách cụ dạy con khá hay, đặt lên vai con tình cảm gia đình, bà con, bạn bè, đất nước, buộc con phải hiểu.

Trọng sự học

Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm có bài thơ Khuyến học, không chỉ nhắc nhở con cháu mà còn nhắc nhở mọi người. Với cụ, “Học biết năm ba chữ cũng là hay / Cho đến như nghề thụ súc việc cấy cày / Có cách thức mới có ngày tiến bộ / Như buôn bán tính hàng ghi sổ / Như thợ thuyền trù thước vẽ đồ / Biết bao nhiêu người trú tính mơ hồ / Chịu thua thiệt chỉ do vì tội dốt / Xin đừng kể gia kế giàu nghèo, thiên tư tốt xấu / Học cho sáng mắt bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu / Về sau lợi ích còn nhiều”.

Điều cụ Hoàng Giáp dạy bây giờ thấy rõ nhất. Cùng một mảnh đất như nhau nhưng nếu ai có trình độ hiểu biết hơn thì có thu hoạch tốt hơn và có thể làm giàu trên mảnh ruộng của mình.

Cùng một nghề như nhau song nếu ai chịu khó học hỏi hơn, có hiểu biết hơn thì có thu nhập tốt hơn, có thể làm giàu bằng cái nghề mà mình đã chọn. Tuy nhiên, “lương nhà lính, tính nhà quan” cũng hỏng, bởi theo cụ “Của đâu cho kẻ nhác mần siêng ăn”.

Cụ dặn con cháu: “Chớ nên tập thói xa hoang / Rượu bạc nha phiến tìm đường tránh xa / Chè xanh cho đến thuốc trà / Cũng đừng mang nghiện rồi mà luỵ thân / Chỉ hai chữ kiệm chữ cần / Con em ta phải tập dần cho quen / Rồi ra trăm sự đều nên”.

Từ những lời dạy ấy mà đời con của cụ khá thành đạt, giúp ích cho đời; các cháu (nội, ngoại) của cụ cũng không hề thua kém.

Khi đất nước đổi mới, lớp cháu của cụ có người bước vào thương trường và gặt hái được những thành công, điển hình như người cháu nội của cụ – con trai GS Nguyễn Khắc Phi là Nguyễn Chí Linh, Giám đốc Công ty TNHH Nhật Linh, sản xuất ổn áp LiOa nổi tiếng.

Theo nld.com.vn

NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC

Thứ Hai, 21 tháng 11, 2011

Những bài viết cảm động

thiep9.jpg

Kính Mừng Ngày Nhà Giáo Việt Nam !

Chúng em xin gửi đến Thầy lời chúc sức khỏe, chúc Thầy càng thành công hơn nữa trong sự nghiệp trồng người cao cả!
Chúng em xin cảm ơn Thầy đã cho chúng em kiến thức, cảm ơn Thầy vì những điều quý giá mà Thầy đã truyền đạt cho chúng em về cuộc sống, về mục tiêu cao cả của việc Dạy Và Học. Chúng em hứa sẽ

Học để hiểu biết
Học để làm người
Học để thành tài
Học để giúp đời
Chúng em xin cảm ơn Thầy !

Pham Huu Thoai
Student of Agriculture, Nong Lam University



THƠ TẶNG THẦY


Nhân ngày 20-11 em xin gửi tặng thầy bài thơ tự em sáng tác. Em chúc thầy sức khỏe, hạnh phúc và thành công hơn nữa ah. Sinh viên Hoàng Hường


Em xin gửi những vần thơ sâu lắng

Gửi tặng người thầy em kính trọng mến yêu

Gửi tới người thầy suốt cuộc đời tận tụy

Cho biết bao thế hệ học trò



Ngày đầu tiên ngồi nghe thầy giảng

Em ước ao được nói chuyện cùng thầy

Được giãi bày tấm lòng ngưỡng mộ

Được nói lên suy nghĩ của riêng mình

Nhưng sao em không thể nói nên lời

Chỉ biết tỏ lòng trên trang giấy nhỏ

Gửi tới thầy với tất cả sự kính yêu



Câu chuyện cuộc đời thầy làm em rơi lệ

Bởi trái tim quá đỗi ngọt ngào

Bởi sự vươn lên bằng chính tình yêu cao cả

Cho cha mẹ thầy cho tất cả thầy cô

Em nhớ mãi người thầy “ngày chỉ ăn một bữa”

Để bước lên tỏa sáng giữa cuộc đời

Em mãi nhớ tiếng thầy như vọng lại

Chỉ bước em đi cho đúng nghĩa cuộc đời



Dù sau này em cất bước về đâu

Vẫn xin nhớ mãi người thầy em kính trọng

Xin gửi tới thầy-người cha vĩ đại

Mãi khắc tên thầy “Thầy của chúng em”



Thưa Thầy!
Con là Vũ Minh Thuận là học trò của Thầy ạ. Thầy ơi, nhân dịp 20-11 ngày tri ân thầy cô, con xin chúc Thầy dồi dào sức khỏe và công tác tốt ạ. Ở dưới này con bắt đầu cấy lúa vụ Đông-Xuân rồi ạ. Ở dưới này con đã học được nhiều điều hay rồi Thầy ạ Con cảm ơn Thầy. Chúc Thầy ngủ ngon ạ.

NGÀY MAI CON TỐT NGHIỆP.

Ngày mai con tốt nghiệp
Niềm hạnh phúc chợt vỡ òa trong ba
Đứa con của tháng năm gian khó
Của tình yêu, hi vọng mẹ cha ...

Ngày mai con tốt nghiệp
Tấm bằng cử nhân
con bước vào đời
Có nỗi lo toan tảo tần của mẹ
Có cánh võng ru hời ...
Mẹ lặng lẽ vì con ...

Ngày mai con tốt nghiệp
Nhớ Nội con giờ đã đi xa
Nước mắt tự bao đời vẫn thế
Để cuộc đời còn rực rỡ thăng hoa ...

Ngày mai con tốt nghiệp
Hạnh phúc nào hơn giữa giông bão cuộc đời
Ba lại thấy mình ...
Sống lại tuổi hai mươi ...

HOÀNG YÊN LYNH
(gửi DẠY VÀ HỌC)


Bài thơ viết dỡ…



Thưa thầy, tiết học hôm qua
Con vẫn mang trong ký ức
Trong miền thương nhớ
Con chưa quên bài học làm người.

Thưa thầy, bài giảng ngày trước
Con gói kín trong sợi nhớ, sợi thương
Mải rong chơi của thời tuổi trẻ
Vấp ngã đầu đời, con nhớ mãi nỗi đau.

Thưa thầy, bên những vết trượt
Con chợt nhớ lời giảng năm xưa
Sống cho đời, xứng đáng những kỳ mong
Bước qua những sai lầm của thử thách.

Thưa thầy, bây giờ con đã hiểu:
“Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”
Cảm ơn Thầy – người sáng tạo ra những người sáng tạo
Biết làm sao để nói hết nỗi lòng con.



Chúc mừng toàn thể giáo viên nhân ngày trọng đại 20/11
Chúc các thầy cô thành công, khỏe mạnh và luôn vững tin trong nghề giáo



Bui Quang Manh Anh, TTMT manhanh@hcmuaf.edu.vn



 

Biết ơn Thầy



Mãi mãi bên con tiếng của Thầy vang vọng.
Đã xa rồi mà con ngỡ hôm qua.

Bài giảng của thầy như chắp cánh ước mơ,

Cho con bay khỏi vùng trời cổ tích.



Có những lúc thầm lặng con ngắm,

Vầng trán thầy đọng lại những nếp nhăn.

Tuổi thơ con như những ánh trăng rằm,

Sao thấy được nổi lòng thầy cùng năm tháng.



Đã qua rồi một thời và con đã lớn.

Bài học đầu đời con hiểu được thầy cô.

Lời giải đáp cho con không còn là ẩn số,

Mà cả tấm lòng thầy quảng đại bao la.



Ở nơi xa theo hương bay của gió,

Con gởi lòng mình tôn kính đến thầy yêu.



Lê Nhựt Minh
08145051@st.hcmuaf.edu.vn



Chúc mừng Thầy

20/11 đã đến rồi. Con ở nơi xa xin gởi đến thầy lời chúc sức khỏe, công tác tốt và tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp trồng người nhiều hơn nữa. (Thanhson ho )



Kinh Mung Ngay Nha Giao Viet Nam




Thay oi!

Tuy em khong duoc ngoi tren lop de nghe Thay giang day, nhung em da hoc duoc rat nhieu dieu tu Tam long cua Thay do ah. Thay phai luon manh khoe, binh an ben Gia dinh, Thay nhe!


Hoc tro, Khoai Tay

ecard sent by khoaitaydatviet@gmail.com (Nov 20, 2011)
http://www.123greetings.com/send/view/11720211109516425676

Trở về trang chính

Khoa Nông học họp mặt truyền thống


DẠY VÀ HỌC.  Khoa Nông học họp mặt truyền thống.
Một số hình ảnh xem tại đây
https://picasaweb.google.com/lh/photo/k26jH
From Khoa Nông học họp mặt truyền thống

Khoảng Lặng Phía Sau Thầy Bài hát chính thức
Trình bày: Đoan Trang|Nhạc Trẻ |128kb/s


Thứ Năm, 3 tháng 11, 2011

Chút thu lắng đôi điều cảm nhận


Hoàng Kim

NGỌC PHƯƠNG NAM . Gửi một chút thu tới nơi ai/ Phương Nam vời vợi để nguôi ngoai/…/ Mùa về em mộng nghiêng bên gối/ Mơ đến mùa sau thu với ai. Thơ Chu Nhạc ý tưởng đẹp, khởi đầu rõ và kết thúc có hậu. Phần giữa là bề bộn những liên tưởng và đầy ắp thông tin kim cổ mà chỉ có người trong cuộc sâu sắc, chiêm nghiệm mới thấu hiểu. Ta thấy thấp thoáng sau những con chữ là những gương mặt thương yêu, cả hình bóng một người con gái rất gần gũi đấy mà đã hóa thành ảo ảnh. (lời bình của Trần Đăng Khoa). Chút thu có dư âm của "Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo..." nhạc Phạm Duy, lời rưng rưng của Victor Hugo, bài thơ tiếng Pháp L'Adieu của Guillaume Apollinaire và dịch thơ Bùi Giáng, Gửi một chút thu có phảng phất hình bóng ông đồ già Vũ Đình Liên, lãng đãng Nhớ Bắc của Huỳnh Văn Nghệ, thấp thoáng cô em xe ngựa Bảy Núi. Đó là thoáng chốc của nửa đời nhìn lại, của mùa thu vàng đầy hoài niệm… Chút thu lắng đôi điều cảm nhận




Ấn tượng đầu tiên của tôi đối với bài thơ này là tựa đề. Gửi một chút thu có quan hệ sâu sắc với một mùa thu xưa đã mất. dư âm của "Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo..." nhạc Phạm Duy, lời rưng rưng của Victor Hugo, bài thơ tiếng Pháp L'Adieu của Guillaume Apollinaire , dịch thơ Bùi Giáng và lãng đãng Nhớ Bắc của Huỳnh Văn Nghệ. Điều này hiện rõ trong câu ba và câu bốn của bài thơ: Nỗi nhớ mùa xưa thu đã mất/ Người đi mở đất thuở sơ khai. Gửi một chút thu làm nhẹ đi tựa đề Mùa thu chết trong cách nhìn lạc quan, bi tráng nhưng không bi lụy.

Mùa thu chết là tên một bài hát rất nổi tiếng của Phạm Duy sáng tác năm 1965, theo lời thơ bản dịch tiếng Việt của Bùi Giáng, phổ từ bài thơ tiếng Pháp L'Adieu của Guillaume Apollinaire. Đây là nỗi đau xé lòng của đại văn hào Victor Hugo, cây cổ thụ nhân văn sừng sững của người Pháp. Ca từ của bài hát Mùa thu chết xúc động và ám ảnh lòng người về nỗi đau tận cùng có thật. đến nỗi ít ai nghĩ rằng đây là bài ca lời thơ dịcht. Sóng Việt Đàm Giang 2009 đã có chuyên khảo sâu về điều này.

Victor Hugo (1802-1885) có người con gái Léopoldin chết đuối cùng chồng ở biển vào năm 1843. Đau thương tột cùng đã làm Victor Hugo đau khổ suốt một thời gian dài, đến độ ông bị ám ảnh. suy tưởng về ý nghĩa của đời sống và tìm cách giải đáp bí ẩn của cái chết, tìm con trong thế giới vô hình. Bài thơ khóc con của ông đã được viết ngày 4 tháng 9 năm 1847 đúng bốn năm sau ngày cha con chia lìa:

Demain, dès l'aube...

Demain, dès l'aube, à l'heure où blanchit la campagne,
Je partirai. Vois-tu, je sais que tu m'attends.
J'irai par la forêt, j'irai par la montagne.
Je ne puis demeurer loin de toi plus longtemps.
Je marcherai les yeux fixés sur mes pensées,
Sans rien voir au dehors, sans entendre aucun bruit,
Seul, inconnu, le dos courbé, les mains croisées,
Triste, et le jour pour moi sera comme la nuit.
Je ne regarderai ni l'or du soir qui tombe,
Ni les voiles au loin descendant vers Harfleur,
Et quand j'arriverai, je mettrai sur ta tombe
Un bouquet de houx vert et de bruyère en fleur.

Victor Hugo
(Les Contemplations- cuốn IV. 1856)

Ngày mai từ rạng đông

Ngày mai, từ rạng đông lúc trời đồng quê bắt đầu sáng
Cha sẽ đi, Con thấy không ? Cha biết con đang chờ cha
Cha sẽ vượt qua rừng. Cha sẽ vượt qua núi.
Cha không thể nào xa cách con lâu dài hơn được nữa
Cha sẽ đi, đôi mắt chãm chú vào suy nghĩ của cha
Chẳng hề màng nhìn chung quanh, không màng nghe một tiếng động
Một mình, không ai biết, lưng còng, hai bàn tay đan nhau
Sầu buồn, và ngày đối với cha cũng tựa như đêm thôi.
Cha sẽ không màng nhìn chiều vàng đang đổ xuống,
Hay những cánh buồm xa đằng phía cảng Harfleur,
Và khi cha đến nơi, cha sẽ đặt trên mộ của con
Một bó hoa có nơ xanh cùng thạch thảo đang nở.


(Sóng Việt Đàm Giang 2009 phỏng dịch nghĩa)

Guillaume Apollinaire (1880-1918) đã viết bài Lời vĩnh biệt để tưởng nhớ Victor Hugo khi ông viếng mộ con gái của đại thi hào . Nguyên tác bài thơ như sau.

L'Adieu

J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends

Ba câu đầu của bài thơ L'Adieu có thể hiểu như là Apollinaire đã viết thay lời của V. Hugo để nói với con gái đã chết, và hai câu chót có thể hiểu như là người con gái yêu của V. Hugo đã trả lời rằng cô mong muốn và chờ gặp lại cha cô ở thế giới vô hình

Cha
đã hái nhành lá cây thạch thảo
Con nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé con đợi chờ cha đó

Bùi Giáng với cảm nhận đặc biệt sâu sắc của một thi sĩ tri âm đối với một nỗi đau lớn. Ông đã chuyển tải tài tình bài thơ riêng trên qua một ngữ cảnh chung của sự đồng cảm và chia sẽ, thành một bài thơ nói về sự chia lìa của đôi nhân tình. Ông đã dùng chữ ta, em, thay vì cha, con dù ông biết bài thơ nguyên tác ý nghĩa khác

Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó ...

Bài thơ trên đã được nhạc sĩ Phạm Duy chuyển thành bài hát

Mùa Thu Chết

Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi !
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, đã chết rồi. Em nhớ cho !
Em nhớ cho,
Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa!
Trên cõi đời này, trên cõi đời này
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Từ nay mãi mãi không thấy nhau...

Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi !
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em.
Vẫn chờ em, vẫn chờ em
Vẫn chờ....
Vẫn chờ... đợi em !


Hoa Thạch Thảo (Aster amellus L) thuộc họ Cúc (Asteraceae) tên Việt gọi là cúc Sao, cúc Nhật, cúc Cánh Mối, tên tiếng Anh là Aster, tên tiếng Pháp là Astère. Hoa cúc thường nở vào mùa Thu và đã được đề cập nhiều trong thơ văn nhạc họa của Việt Nam. Hoa Thạch thảo hay hoa Cúc Cánh mối ở Việt Nam (Hình từ internet). Hoa thạch thảo đời đời gắn liền với bài thơ Demain, dès l'aube của Victor Hugo, L'Adieu của Guillaume Apollinaire, Lời từ biệt của Bùi Giáng, Mùa thu chết của Phạm Duy. Đó là cảm xúc của rất nhiều ca từ . Chất trữ tình của tất cả những tuyệt phẩm trên là không phải bàn nhưng với tôi thì thích tựa đề Lời từ biệt hơn là Mùa thu chết. Trong mất mát tột đỉnh vẫn còn hi vọng chiếc lá cuối cùng thì tính nhân văn cao hơn. Dẫu xa cách như vợ chồng Ngưu, dẫu sống dẫu chết thì Chỉ còn anh và em cùng tình yêu ở lại.

Trên sự liên tưởng Nỗi nhớ mùa xưa thu đã mất , trong tác phẩm Gửi một chút thu, anh Chu Nhạc đã đưa vào đầy ắp thông tin kim cổ mà chỉ có những người trong cuộc sâu sắc, chiêm nghiệm mới thấu hiểu . Đó là “Người đi mở đất” “Phương Nam mùa thu về trong ký ức” “Mùa thu về pha mái tóc sương phai”. Ta lờ mờ nhận thấy đằng sau các câu thơ chắt lọc này là tự chuyện… Ta thấy thấp thoáng sau những con chữ là những gương mặt thương yêu, cả hình bóng một người con gái rất gần gũi đấy mà đã hóa thành ảo ảnh. (lời bình của Trần Đăng Khoa). Gửi một chút thu có phảng phất hình bóng ông đồ già Vũ Đình Liên, lãng đãng Nhớ Bắc của Huỳnh Văn Nghệ, thấp thoáng cô em xe ngựa Bảy Núi. Đó là thoáng chốc của nửa đời nhìn lại, của mùa thu vàng đầy hoài niệm…

Gửi một chút thu


Gửi một chút thu tới nơi ai
Phương Nam vời vợi để nguôi ngoai
Nỗi nhớ mùa xưa thu đã mất
Người đi mở đất thuở sơ khai

Nơi ấy thu về trong ký ức
Cha ông lưu giữ chẳng một mai
Mỗi năm mỗi độ âm thầm nhắc
Mùa về pha mái tóc sương phai

Mùa về cha nhẩm tay bấm đốt
Mùa về mẹ nhớ tuổi ô mai
Mùa về em mộng nghiêng bên gối
Mơ đến mùa sau thu với ai.


Chu Nhạc có gì đó khá sâu nặng với đất phương Nam mới nhớ khắc khoải đến vậy. Trần Đăng Khoa nhân xét: “Tập thơ “Chút thu” có thể xem như tuyển tập thơ của cả một đời Nguyễn Chu Nhạc. Đọc thơ anh, tôi luôn thấy thấp thoáng sau những con chữ là hình bóng của một ông đồ”. Nói đến ông đồ là nói đến chữ nghĩa. Đi về phương Nam người dân trọng nghĩa hơn là chữ và ưa sống tình nghĩa hơn. Khởi đầu và kết thúc Gửi một chút thu của Chu Nhạc thật khéo, có gì đó nghe rưng rưng Gửi một chút thu tới nơi ai/ Phương Nam vời vợi để nguôi ngoai/…/ Mùa về em mộng nghiêng bên gối/ Mơ đến mùa sau thu với ai.

xem tiếp:
Đọc Chút thu của Nguyễn Chu Nhạc (Trần Đăng Khoa)
Gửi một chút thu (Blog Chu Nhạc)

Trở về trang chính
CÂY LƯƠNG THỰC; FOOD CROPS
Dạy và học ĐHNLHCM
Dạy và học BlogtiengViet
Gia đình nông nghiệp
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC

Chủ Nhật, 11 tháng 9, 2011

Bài học thực tiễn từ người Thầy



NGỌC PHƯƠNG NAM. Đọc bài "Giúp châu Phi trồng lúa bài toán được và mất" của TS. Tô Văn Trường viết về giáo sư Võ Tòng Xuân, tôi nhớ về bài học an sinh và chiến lược kết nối Nam - Nam của nguyên Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết cùng lời dặn của thầy Norman Boulaug: "Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó". Giáo sư Võ Tòng Xuân có nhiều tâm sự khi trồng lúa giúp châu Phi, khác với ý kiến của anh Hoàng Kim (Đồng Tháp),"Giúp bạn cũng là tự giúp mình !", tôi, Hoàng Kim (Đại học Nông Lâm) liên tưởng đến "Chuyện bếp gas nhiên liệu sinh học", hiện đã là tiến bộ kỹ thuật rộng lớn tại Nigeria. Nó được gợi mở ý tưởng qua học hỏi kinh nghiệm thực tiễn từ Việt Nam. Các đoàn chuyên gia dầu khí và nghề sắn của châu Phi đã đến Việt Nam. Họ thăm ruộng sắn và nhà máy chế biến nhiên liệu sinh học, thăm thu hoạch sắn và học trên đồng cùng nông dân và sinh viên, họ cũng đến thặm gia đình chúng tôi. Sau khoa học kỹ thuật, giáo dục đào tạo là công nghệ và tổ chức sản xuất. Bài học thực tiễn từ người Thầy thật thấm thía!

GIÚP CHÂU PHI TRỒNG LÚA BÀI TOÁN ĐƯỢC VÀ MẤT!

Tô Văn Trường

Nhân đọc bài “Sang Châu Phi trồng lúa” đăng trên báo Sài gòn tiếp thị, tác giả Huỳnh Kim bức xúc, viết bài “Tại sao bỗng dưng nhẩy tưng sang Châu Phi lập liên doanh trồng lúa” đặt vấn đề rất cụ thể những nhà khởi xướng, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn cụ thể là Chính phủ Việt Nam phải trả lời thỏa đáng cho nông dân Việt Nam các câu hỏi : Việt Nam được lợi gì khi đầu tư trồng lúa ở Châu Phi? Và việc phát triển cây lúa ở Châu Phi có mất thị trường xuất khẩu gạo của nông dân Việt Nam, do tạo thêm cạnh tranh về xuất khẩu gạo hay không? Lợi đâu không thấy, có đâu mà thấy (?!). Nếu có thì quí vị hãy trưng ra. Tôi chỉ thấy toàn là tai hại cho nông dân Việt Nam, và nền kinh tế Việt Nam.

Để khách quan và khoa học, tôi chuyển nguyên văn bài viết của tác giả Hoàng Kim đến một số chuyên gia, nhà khoa học ở trong và ngoài nước và một số “lão nông tri điền” để tham vấn.

Thứ nhất là một số người đồng ý chia sẻ với nỗi lo của tác giả Hoàng Kim đứng trên lập trường lợi ích của người nông dân về thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng và Việt Nam sẽ mất “bí kíp” trồng lúa! Tuy nhiên, lại khẳng định nhưng làm gì có chuyện thành công mà lo. Ngay ở Phillipine có trụ sở Viên nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) nhưng bao năm nay, người Phi vẫn phải nhập lúa gạo hàng năm. Đối với Châu Phi, nhiều nước độc lập khỏi ách thực dân, được Liên HIệp Quốc giúp đỡ mà đói vẫn hoàn đói, có độc lập nhưng có ngày nào yên. Vậy là vấn đề nằm ở chỗ khác chứ không phải người Châu Phi không sản xuất được lương thực.

Thứ hai là hầu hết các ý kiến phân tích cho rằng chuyện về xuất khẩu cây lúa quả là chuyện đáng suy nghĩ. Câu chuyện chắc phải nhìn nhận trên nhiều khía cạnh về chính trị, kinh tế xã hội và trong khung cảnh hội nhập toàn cầu chính sách hợp tác kinh tế toàn diện kể cả cơ hội đầu tư. Việt Nam đưa người đi giúp các nước trồng lúa là đúng đạo lý. Nhìn lại lịch sử phát triển nông nghiệp của Việt Nam biết bao loại giống cây trồng, vật nuôi, và các kỹ thuật canh tác đều ít nhiều có bàn tay giúp đỡ, chuyển giao của các chuyên gia, và các nước tiên tiến đi trước. Nhiều chuyên gia về nông nghiệp của Việt Nam được đào tạo, trưởng thành từ nước ngoài rồi về nước giúp phát triển nông nghiệp trong đó có cây lúa. Tinh thần cạnh tranh mà các nước phát triển đang áp dụng là làm sao mình tiến bộ hơn đối thủ để chiếm thị trường và lợi nhuận, chứ không phải là chèn ép, mong đối thủ kém đi để mình có ưu thế! Không kể là về tinh thần nhân đạo, không thể nói mình cứ mong muốn các nước Châu Phi cứ đói nghèo hoài để nông dân mình có cơ hội bán gạo cứu đói. Trong một nước cũng vậy, chúng ta nghĩ sao nếu có người cứ cầu mong cho có bão lụt để bán được nhiều mì gói cứ trợ! Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay khi mất an ninh lương thực ở bất cứ nơi đâu thì sẽ ảnh hưởng đến tất cả mọi người trên thế giới.

Việt Nam không nhất thiết phải cố gắng để xuất khẩu 6-7 triệu tấn gạo. Thái Lan đang giảm số lượng gạo để tăng tỉ trọng gạo chất lương để không ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu. Diện tích đất trồng lúa của Việt Nam chỉ bằng 40% của Thái Lan (4,1 triệu ha so với gần 10 triệu ha) nên phải trồng giống lúa năng suất cao, nhu cầu phân bón nhiều, giá thành tăng. Trên thế giới ngày càng có nhiều nước tham gia xuất khẩu gạo và tiềm năng cao, còn một số nước đang nhập cũng có chiến lược tự túc như Indonesia, Philipine. Do đó, việc cạnh tranh xuất khẩu gạo là đương nhiên. Về kinh tế ta cũng đâu có được nhiều từ xuất khẩu gạo, đó là chưa kể, Việt Nam có lợi thế rất lớn trong sản xuất lúa nên năng lực cạnh tranh khá cao. Thực ra, trồng lúa không có lợi nhuận cao như các cây trồng khác nhưng nông dân Việt Nam vẫn phải tiếp tục trồng lúa vì nhiệm vụ an ninh lương thực toàn cầu và nhà nước cần có lợi thế về xuất khẩu gạo để trao đổi về các quyền lợi về kinh tế khác và uy tín chính trị trên toàn cầu. Theo mô hình cơ bản trong lý thuyết thương mại quốc tế của Hechscher-Ohlin, một quốc gia sẽ có lợi thế xuất khẩu những mặt hàng thâm dụng những nguồn lực dư thừa của nó. Việt Nam vẫn là một quốc gia nông nghiệp không có nguồn vốn tài chính dồi dào, thế mạnh của Việt Nam trong cạnh tranh quốc tế là nguồn lực lao động sẵn có và rẻ tiền. Với lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo, các mặt hàng nông lâm thủy sản Việt Nam vẫn còn sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới.

Nhìn dưới góc độ ngành nghề khác, cũng có kinh nghiệm đáng tham khảo. Ngày trước, khi ngành may mặc không phát triển, ai có nghề may đều rất giấu nghề. Rồi có một giai đoạn các trường dạy cắt may mở ra và phát triển. Ngày đó mọi người cứ nghĩ rằng ai cũng biết tự cắt may thế này thì các hiệu may thất nghiệp. Nhưng đã có một ông thợ may giỏi ngày đó rất tích cực đi dạy các lớp cắt may nói rằng quan niệm thế là nhầm. Khi mọi người có hiểu biết nhiều về cắt may tức là họ sẽ biết cách ăn mặc đẹp hơn. Khi có nhu cầu ăn mặc đẹp hơn thì các hiệu may sẽ càng đắt khách. Câu nói đó của ông thợ may ngày đó khiến mọi người khó hiểu và không tin được. Nhưng rồi thời gian đã chứng minh là ông đúng.

Trong bài viết, tác giả Hoàng Kim đề cập đến việc GS. TS Võ Tòng Xuân là một nhà khoa học lớn, một nhân cách lớn, nên có một tâm hồn lớn. Việc Giáo sư bất nhẫn trước nạn đói của châu Phi nên muốn giúp các nước châu Phi trồng được lúa để hết đói là một việc thiện, cho nên Giáo sư chủ trì chương trình “An toàn lương thực Tây Phi Châu – Sierra Leone” là điều có thể hiểu được nhưng không nên lẫn lộn giữa việc thiện của một cá nhân và việc hợp tác vì quyền lợi song phương của hai quốc gia. Là người trong cuộc mắt thấy, tai nghe, tay làm trong đợt đi khảo sát thực tế ở Sierra Leon cùng với Gs Võ Tòng Xuân, xin được trình bày rõ hơn với bạn đọc.

Ngưỡng mộ và ấn tượng trước các thành tích về phát triển lương thực của Việt Nam, đặc biệt là kỹ thuật trồng lúa năng suất cao của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), năm 2005 tiến sỹ Sama Monde Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và An ninh lương thực Sierra Leone đã đến thăm và đặt vấn đề nhờ đại học An Giang sang giúp xây dựng chương trình an ninh lương thực cho Sierra Leone. Năm 2006, GSTS Võ Tòng Xuân Hiệu trưởng trường đại học An Giang đã đến Sierra Leone làm việc với Phó Tổng thống Solomon Berawa, Bộ trưởng Sama Monde về chương trình nói trên. Sau khi đi khảo sát thực địa, 2 bên thống nhất lựa chọn vùng Mange Bureh thuộc huyện Port Loko làm khu thí điểm trồng lúa. Vấn đề đặt ra là làm sao có được nguồn kinh phí để có thể bắt tay vào việc xây dựng khu thí điểm này?
Sierra Leone là quốc gia nằm ở Tây Phi có diện tích 71.740 km2, dân số hơn 5 triệu người, có nhiều tiềm năng về tài nguyên (đất đai, nguồn nước, khoáng sản…) nhưng vì mới trải qua cuộc nội chiến, cơ sở vật chất rất nghèo nàn, lạc hậu, lương thực phải nhập khẩu hơn 90%, ngay Thủ đô là Freetown cũng thiếu điện nước trầm trọng, nhiều phố phải thắp đèn dầu và hình ảnh người dân từ già đến trẻ phải nhẫn nại đi đội nước mang về dùng trở thành khá phổ biến trên các đường phố.




GS Võ Tòng Xuân và TS Tô Văn Trường đang khảo nghiệm cây lúa trong nhà lưới làm đối chứng tại Mange Bureh

Từ ngày 12/11/2007 đến ngày 22/11/2007 đoàn chuyên gia Việt Nam đã tiếp tục đến làm việc về tiến trình của dự án với các quan chức của Phủ Tống thống và Bộ Nông nghiệp và An ninh lương thực Sierra Leone. Đoàn gồm có: GSTS. Võ Tòng Xuân- Hiệu trưởng Đại học An Giang, TS. Tô Văn Trường- Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, KS. Đặng MinhSơn- Tổng giám đốc Công ty tư vấn đầu tư và Xây dựng quốc tế (ICIC). Đoàn đã đi khảo sát thực địa, đánh giá sơ bộ kết quả bước đầu, thảo luận với người dân địa phương và các quan chức liên quan.




Thảo luận về phương án thiết kế công trình thủy lợi tại hiện trường

Từ ngày 12/11/2007 đến ngày 22/11/2007 đoàn chuyên gia Việt Nam đã tiếp tục đến làm việc về tiến trình của dự án với các quan chức của Phủ Tống thống và Bộ Nông nghiệp và An ninh lương thực Sierra Leone. Đoàn gồm có: GSTS. Võ Tòng Xuân- Hiệu trưởng Đại học An Giang, TS. Tô Văn Trường- Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, KS. Đặng MinhSơn- Tổng giám đốc Công ty tư vấn đầu tư và Xây dựng quốc tế (ICIC). Đoàn đã đi khảo sát thực địa, đánh giá sơ bộ kết quả bước đầu, thảo luận với người dân địa phương và các quan chức liên quan.

Việc lựa chọn khu thí điểm hơn 100 ha để trồng lúa ở Mange Bureh là hoàn toàn thích hợp về điều kiện thổ nhưỡng, đất đai, nguồn nước. Giống lúa của Việt Nam đưa sang có ưu điểm là giống lúa ngắn ngày, năng suất cao so với giống lúa địa phương. Các giống lúa trồng thí điểm ở Trại nông nghiệp Rokupr (gần 1 ha) mọc khá tốt vì có đủ nguồn nước. Riêng 4 ha lúa thí điểm ở Mange Bureh phát triển không được như mong muốn vì 3 nguyên nhân (1) Cỏ tranh cao ngút đầu người, làm đất chỉ bằng thủ công không có máy cày lật hết rễ cỏ tranh nên ảnh hưởng nhiều đến cây lúa (2) Làm đất, gieo trồng vào cuối tháng 8 nên khi mùa mưa chấm dứt, không có đủ nguồn nước cung cấp cho các giai đoạn phát triển của cây lúa (ra lá, đẻ nhánh, làm đòng, trổ chín) và (3) bón phân và thuốc trừ sâu đều thiếu so với yêu cầu phát triển của cây lúa.



Đoàn chuyên gia Việt Nam thảo luận về chương trình an ninh lương thực tại Dinh Tổng thống.

Về quy hoạch và thiết kế các công trình thủy lợi, đã khảo sát đo đạc bình đồ, thiết kế sơ bộ hệ thống cấp nước (trạm bơm, kênh, cống điều tiết) cho khu trồng lúa. Tuy nhiên, do các công trình được thiết kế tính toán trên cơ sở tính lưu lượng tưới theo mực nước sông ở Little Scarcies, chưa xây dựng sơ đồ tính toán thủy lực bằng phần mềm HEC-RAC cho mực nước đầu kênh theo hệ thống nên công trình thiết kế thiên về an toàn, không được kinh tế. Mặt khác, do không có điều kiện khoan thăm dò địa chất nên không so sánh phương án trạm bơm đặt trên đường ray so với đặt trên phao nổi theo chế độ của thủy triều. Qua đợt khảo sát thực địa này, đoàn công tác đã quyết định phải điều chỉnh lại thiết kế hệ thống công trình thủy lợi cả về quy mô và kích thước. Sự điều chỉnh này đã giảm được kinh phí hơn 100 nghìn đô la so với thiết kế ban đầu. Cũng từ kết quả khảo sát, đoàn cũng đã xác định lại diện tích có khả năng trồng lúa ở đây chỉ vào khoảng 112 ha chứ không phải là 200 ha như ước tính ban đầu của phía bạn. Căn cứ vào tính hình thực tế và rút kinh nghiệm bài học thất bại của Đài Loan khi đầu tư xây dựng khu thí điểm trồng lúa năm 1961 và Trung Quốc năm 1972 ở Mange Brreh, chúng tôi nhận thấy:

Mô hình sản xuất ở Mange Bureh chỉ nên trồng lúa 2 vụ trong mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm để tận dụng ưu điểm của vùng này là hàng năm có lương mưa rất lớn khoảng 3.000 mm/năm, và giống lúa của Việt Nam khoảng 90 ngày rất thích hợp 2 vụ trong mùa mưa. Công trình thủy lợi chủ yếu tưới tiêu hỗ trợ theo thời kỳ sinh trưởng của cây lúa. Nếu bố trí vụ lúa thứ 3 vào mùa khô, theo tính toán của chúng tôi, chỉ riêng tiền mua xăng dầu để chạy máy bơm còn đắt hơn tiền nhập khẩu lương thực và sau này có bàn giao thì người dân địa phương cũng không thể thực hiện vì lý do kinh tế. Vụ lúa thứ 3 sẽ được trồng trong mùa khô, khi Chính phủ phát triển thủy điện để vừa có điện chạy máy bơm, vừa cung cấp cho sinh hoạt và các hoạt động kinh tế khác. Tiềm năng thủy điện của Sierra Leone còn rất lớn, chưa được khai thác. Để đảm bảo chương trình an ninh lương thực và phát triển kinh tế bền vững cần phát triển “mô hình kinh tế trang trại” trồng trọt, chăn nuôi và đánh bắt, với sản phẩm chính vẫn là 2 vụ lúa trong mùa mưa (theo mô hình sản xuất của nông dân An Giang). Vụ thứ 3 chủ yếu trồng mè, đậu phộng (theo mô hình sản xuất của nông dân Tây Ninh). Các loại hoa màu có giá trị kinh tế cao như bắp cải, củ cải, ớt xanh, củ hành, dưa leo, cà rốt, cải xanh, gừng, xoài. Các loại cây dài hạn như mì, mía, điều, cao su, tiêu, trà, thuốc lá. Ở những vùng trũng sẽ làm ao, nuôi thủy sản nước ngọt cá, tôm; kết hợp chăn nuôi như heo, gà vv…Chương trình an ninh lương thực cho Sierra Leone cũng cần chú trọng các lớp đào tạo huấn luyện chuyển giao công nghệ, nông dân tham gia chọn tạo giống lúa ở cộng đồng và kỹ thuật sản xuất lúa giống. Bởi vì nếu người dân không biết cách tự tạo ra giống lúa nguyên chủng thì chỉ sau vài vụ sản xuất lúa sẽ bị thoái hóa vv…

Từ chương trình thí điểm ở Sierra Leone GS Võ Tòng Xuân và các nhà khoa học Việt Nam tiếp tục sang giúp Nigeria, Morambique, cộng hòa hồi giao Mauritania vv…với mục đích giúp họ “cái cần câu hơn cho xâu cá” tinh thần truyền bá “văn minh lúa Việt” để xây dựng hình ảnh thương hiệu Việt Nam có trách nhiệm với xã hội loài người và đẩy mạnh uy tín và sự cống hiến của Việt Nam với nhân loại. Đấy chính là văn hóa của người Việt, phải biết thi ân bất cầu báo, phải biết nghĩ đến hạnh phúc của người trước hạnh phúc của mình, phải biết mình vì mọi người thì mọi người mới vì mình ((Alexandre Dumas).

Mạn phép trích dẫn một vài ý chính của GS Võ Tòng Xuân mới mại cho tôi để kết luận cho bài viết này: “Tôi thường ít không thì giờ đâu mà đi tranh cải với những người có ý kiến quá thiển cận và ích kỷ , chỉ biết ngửa tay nhận mà không bao giờ cho ai cái gì cả. Nếu các nước ngoài họ cũng nghĩ như anh Hoang Kim thì chắc VN và các nước nghèo trên thế giới sẽ không có ai viện trợ cả. Nên xác nhận lại lần nữa -mà chính anh H Kim đã biết rất rõ- nông dân ta nghèo không phải vì không ai mua lúa, nhưng nghèo vì những người có quyền bán lúa đã và đang điều khiển thị trường. Trong khi cả thế giới đều được khuyến khích giúp đỡ châu Phi, thì VN chờ có ai bỏ tiền ra mới chịu đi làm công cho người ta để gọi là "giúp cho châu Phi". Chương trình của mình nhờ có CTy Long Van 28 mới goi được là viện trợ cho Sierra Leone với đúng nghĩa Việt Nam viện trợ, ta giúp cho nông dân Phi trực tiếp. Tôi xin đính chính là CTy Long Vân 28 không vì lợi nhuận nào để giúp chúng ta sang đó ngoài ý muốn giúp máy nhà khoa học VN có điều kiện sang giúp Phi. Tôi chỉ ửng hộ các chương trình mà tôi thấy rõ là chúng ta giúp nông dân Phi trực tiếp để giúp họ xóa đói giảm nghèo. Nếu chương trình liên doanh để làm giàu trên đầu trên cổ nông dân (như các công ty Trung Quốc mua đất ở các nước châu Phi rồi đưa dân họ sang sản xuất nông nghiệp, hoặc các công ty lương thực và Tổng công ty Lương thực ăn lời của nông dân VN) thì tôi không bao giờ tham gia. Mặc dù có sự giúp đỡ của mình, các nước châu Phi và nông dân của họ rất khó có thể đủ ăn được, làm gì có để xuất khẩu! Trở ngại lớn nhất là họ không bao giờ đầu tư cho thủy lợi, và không muốn dùng thủy lợi ngay khi có viện trợ hệ thống thuỷ lợi. Anh Hoàng Kim lo sợ vì không biết được cốt lõi của vấn đề. Các anh khác cũng la hoãng tương tự: nào là thương lái Trung Quốc thu tóm khoai lang của VN, nào là "các doanh nghiệp nước ngoài đang thâu tóm ngành chăn nuôi". Đời sống nông dân ta sẽ ra sao khi ta không có những doanh nghiệp nước ngoài giúp sản xuất và tiêu thụ nông sản? Mình đã thấy rõ "tài năng" của phần lớn doanh nghiệp VN - họ chơi với thương lái, ăn xỗi ở thì, để nông dân mạnh ai nấy sản xuất rồi cái gì bán được thì mụa, không được thì không mua...để cho nông dân hoàn toàn gánh lấy rủi ro. Nhân đây tôi nói thêm là mình phê phán CTy CPVN, nhưng chính họ đã cung cấp cho người chăn nuôi của ta những con giống rất tốt và thức ăn gia súc rất hiệu quả. CP vào VN một thời gian ngắn đã đánh bại hết các công ty TAGS của VN. Vì sao? Người chăn nuôi VN dù có yêu nước cách mấy đi nữa cũng không thể bỏ tiền ra nuôi mấy công ty TAGS VN với những TAGS rất tồi, nuôi gia súc lâu lớn. Tôi chưa thấy công ty TAGS nào của VN mình có một chương trình nghiên cứu. Các công ty nông nghiệp khác của ta cũng chả có nghiên cứu gì, giỏi đi copy kết quả trong sách vỡ, kể cả TCT Lương thực cũng chưa bao giờ tài trợ cho chương trình nghiên cứu cây lúa. Trong khi đó thì Công ty CP tại trụ sở chính của họ ở Bangkok mà tôi có dịp đến thăm hồi năm 1986, có một tòa nhà 4 tầng làm trung tâm nghiên cứu khoa hoc của họ. CTy mướn chuyên gia nước ngoài đến nghiên cứu, trả lương cả chục ngàn đôla/tháng, mới có được kết quả để họ ứng dụng vào chế biến TAGS, lai tạo giống gà, giống tôm. Dĩ nhiên sản phẩm họ tung ra thị trường được người chăn nuôi ưa chuông là thế.vv…


CHUYỆN BẾP GAS NHIÊN LIỆU SINH HỌC


Hoàng Kim

Giúp bạn cũng là tự giúp mình !


Bếp gas nhiên liệu sinh học từ nguyên liệu sắn lát hiện đã là tiến bộ kỹ thuật rộng lớn tại Nigeria. Nó được gợi mở ý tưởng qua học hỏi kinh nghiệm thực tiễn từ Việt Nam. Các đoàn chuyên gia dầu khí và nghề sắn của Nigeria đã đến Việt Nam. Họ thăm ruộng sắn, nhà máy chế biến nhiên liệu sinh học, thu hoạch sắn và học trên đồng ruộng với nông dân và sinh viên Việt Nam. Bếp cồn sinh học là việc nhỏ mà lớn.





Nguyen Văn Bo (1), Hoang Kim (2), Rod Lefroy (3), Keith Fahrney (3), Reinhardt Howeler (3) Hernan Ceballos (3)

ABSTRACT

Cassava in Vietnam is among the four most important food crops. But it has always been considered a secondary crop even though it has played an important role in national food security, especially during the difficulty year of the late 1970s. During the past two decades of economic renovation, Vietnam has successfully escaped lingering food deficiency. Cassava now an important source of cash income to small farmers, who either use it for animal feeding or for sale to starch factories. In 2008, cassava fresh root production in Vietnam was about 9.39 million tones, up from only 1.99 million tones in 2000. This was achieved through both area expansion, from 237,600 to 556,000 ha and marked increases in yield, from 8.36 t/ha in 2000 to 16.90 t/ha in 2008. Vietnam has developed an E10 policy requiring the production of 100 to 150 million liters per year. Petrovietnam plans to build three tapioca-based ethanol plants in the northern (Phu Tho), central (Quang Ngai) and southern Vietnam (Binh Phuoc). Each costing $80 million which will use cassava as feedstock, is expected to open in 18 months with total annual capacity of 300 million liters per year. The first and second of which is already under construction in Phu Tho and Quang Ngai. The third plant will begin in Binh Phuoc in March next year and is due to be completed at the end of 2011. The Ministry of Agriculture and Rural development (MARD) has planned to remain cassava area around 450.000 hectares from 2011 to 2015 and efforts to increase fresh root yield from 16.90 to 20.00 ton/ha in 2011 and 23.00 - 24.00 ton/ha in 2015 (MARD 7256/TB-BNN-VP 25 12 2009). Vietnam is now probably the second largest exporter of cassava products (chip and starch), after Thailand. Major markets of Vietnam’s cassava exports are China and Taiwan, Japan, Singapore, Malaysia, South Korea and countries in Eastern Europe. Besides, animal feed factories also contributed significantly to the increasing demand for cassava roots. Although in Vietnam cassava processing is a relatively new business and export volumes are still low, the cassava processing factories are new and modern. That is why Vietnam’s cassava products may have a competitive advantage in the world market. 

Key words: Cassava in Vietnam, Bio-fuel
 

1 Vietnam Academy of Agricultural Sciences (VAAS), nvbo@hn.vnn.vnn
2 Nong Lam University (NLU), Linh Trung, Thu Duc, Ho Chi Minh City, Viet Nam, hoangkim_vietnam@yahoo.com; http://cropsforbiofuel.blogspot.com

3 International Center for Tropical Agriculture (CIAT), Cali, Colombia; h.ceballos@cgiar.org ; CIAT c/o FCRI, Dept. of Agriculture, Chatuchak, Bangkok, 10900 Thailand, r.howeler@cgiar.org















Lessons from CassavaViet

Six essential conditions for a successful cassava R&D program include: Materials, Markets, Management, Methods, Manpower and Money (6 Ms).

Main experiences in linking cassava R&D activities in Vietnam include:

1) Establishment of the Vietnam Cassava Program (VNCP) including advanced cassava farmers, researchers, extension worker, managers of cassava research and development projects, cassava trade and processing companies.
2) The establishment of on-farm research and demonstration fields (farmer participation research FPR)
3) Ten mutual link-up activities (10 T – in Vietnamese):




CONCLUTION:

Lessons from Vietnam (Trip report of Mr. Boma)

“Vietnam is a classic example of how cassava can contribute to rural industrialization and development. Previously, people were reluctant to grow cassava because they thought that cassava caused soil degradation and produced low profits. But in reality one hectare of cassava can produce 60-80 tones of fresh roots and leaves. The situation has changed because of the development of sustainable cultivation techniques and new high-yielding varieties with the availability of a large and growing market demand. Cassava has become a cash crop in many provinces of Vietnam. Cassava chips and starch is now being produced competitively, and cassava markets are promising. The combination of wide spread production of fresh cassava roots and the processing of cassava into chips starch and ethanol has created many jobs, has increased exports, attracted foreign investment, and contributed to industrialization and modernization of several rural areas”.






Fictures: Boga Boma and Nigerians biofuel group visit to Vietnam


HOPE RISES ON ETHANOL FROM CASSAVA



CROPS FOR BIOFUEL to follow up 234NEXT.COM. By Ayodamola Owoseye December 20, 2009. With the whole world clamouring for reduction in the burning of carbon in order to slow down the effects of global warming, Nigeria may soon be able to reduce its carbon emission by using ethanol fuel as substitute for kerosene. (Picture: Dwindling cassava cultivation inhibits the planned conversion of cassava to ethanol for energy production)

More ...



Boma Anga, the chief executive officer of Cassava Agro Industries Service Ltd (CAISL) said in a telephone interview that Nigerians will soon be able to use ethanol across the country as an option for household cooking fuel.

"Nigerians will be able to purchase ethanol fuel for cooking by March 2010," said Mr. Anga. "The cooking fuel also known as Cassakero (cassava-kerosene) will be available to the public as an alternative to kerosene in order to reduce the money spent on fuel usage by most families," Mr. Anga added.

Ethanol as substitute

The idea of looking for a substitute for the carbonised cooking fuel (kerosene) and wood came as a result of the harmful impact on the environment and climate change.

Since carbon burning has been identified as one of the reasons for climate change, the world decided to look for alternative means in terms of biofuel, which is renewable fuel derived from biological matter, for instance biodiesel, biogas, and methane which are all believed to have less hazardous impact on the ecosystem.

Mr. Anga said the Cassakero initiative was planned as substitute for kerosene and wood for Nigerians through the production of ethanol from cassava root.

"This is to promote the use of ethanol as a substitute for kerosene in the country as this will reduce the greenhouse effect caused by the use of carbon fuel. The programme is targeted toward installing about 10,000 small-scale bio ethanol refineries in the 36 states of the federation, including the FCT, over the next four years, to produce daily ethanol cooking fuel requirement for four million families," he said.

Food security

But the project is raising concerns about food security as cassava is a major staple of most Nigerians. It is used in producing flour which is made into a paste and the popular garri, eaten in most homes across the land.

Mr. Anga, however, said the project will not have any negative effect on cassava supply in the market nor will it affect food security as the companies will be using specially cultivated, industrial cassava.

"Considering the tonnes of cassava required for the project, I want to assure you that it will not endanger food security as we will be using non-edible industrial variety of cassava which will be planted on fresh land.

"We have already established a feedstock supply that will produce eight million tonnes of cassava at an average yield of 25 tonnes per hectares from 320,000 hectares to be planted nationwide. To also ensure a steady supply of cassava for the feedstock, we have signed a contract with Nigerian Cassava Growers Association (NCGA) to supply eight million tonnes of cassava tubers," he added.

He said the contract would benefit over 250,000 cassava farmers across the country with additional 400,000 hectares to be deployed for cassava cultivation as the refinery will require 40 hectares of cassava to supply 100 per cent feedstock requirement annually.

Cassava farmers welcome the initiative

Cassava farmers see this as a welcome initiative, as it will increase the market for the produce and encourage more people to embark on farming.

Jimoh Bashir, a cassava farmer, said the initiative is a good one as this will allow more farmers to cultivate the crop more, knowing that there is a market for it as compared to when farmers had to seek for buyers to buy the commodity from them.

"This is a nice initiative that we hope will last long as it will open up the market," Mr. Bashir said.

"Most of what is produced in the country is used in the food sector. Having the product used in the industries will only enhance our financial status as this means there will be more produce with a ready market. This means most of the farmers that have abandoned farming will be lured back to it," he said.

Mr. Bashir is, however, concerned about the affect of this on food production in the country as there is a tendency for farmers to change from producing edible cassava for the industrialised ones.

"This might, however, pose a threat to the production of edible cassava by farmers. Farmers will tend to concentrate more on producing the industrial cassava root with a ready market and use, than cultivating the normal ones. This might also affect the market price of the crop," he said.

Economic implications for Nigerians

With the federal government's plan to deregulate the downstream oil sector which might lead to a sharp increase in the prices of petroleum products, especially kerosene, the domestic cooking fuel for most households, the average Nigerian will have to spend more on the purchase of the product or seek alternative means such as coal or wood which will further endanger the environment.

Mr. Anga arued that ethanol will be cheaper and available for the masses as it burns slower than the normal kerosene fuel.

"The new fuel will be locally produced; and provide Nigerians with a new household fuel for use in cooking, lighting, heating, refrigeration and electricity generation. This fuel will be cleaner, safer and cheaper than kerosene without the need for government subsidy and the introductory price will be retailed at about N75 per litre," he said.

"The production and the distribution of the ethanol based appliances will create employment and wealth to investors and the nation in general. The programme will also create sustainable employment and reduce poverty and deforestation while enhancing food and energy security in the Nation.
http://www.blogger.com/img/blank.gif
"The primary goal is to make ethanol as a cooking fuel available, accessible and affordable, in a commercially profitable and sustainable manner, to low income Nigerians," he added.



xem thêm

Hoa điên điển và em Cao Nguyên


CÂY LƯƠNG THỰC; FOOD CROPS

Dạy và học ĐHNLHCM

Gia đình nông nghiệp

NGỌC PHƯƠNG NAM
, DẠY VÀ HỌC

Em ơi em, can đảm bước chân lên


Nguyễn Khoa Tịnh

Thầy ước mong em
noi gương Quốc Tuấn


Đọc thơ em, tim tôi thắt lại 
Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng 
Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng 
Xót xa vì đời em còn thơ dại 
Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải 
Mới biết cười đã phải sống mồ côi 
Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi 
Như chiếc lá bay về nơi vô định 
“Bụng đói” viết ra thơ em vịnh: 

“Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai 
Có biết lòng ta bấy hỡi ai? 
Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng 
Kể chi no đói, mặc ngày dài” 


Phải! 
Kể chi no đói mặc ngày dài 
Rất tự hào là thơ em sung sức 
Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực 
Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang” 

“Trung dũng ai bằng cái chảo rang 
Lửa to mới biết sáp hay vàng 
Xào nấu chiên kho đều vẹn cả 
Chua cay mặn ngọt giữ an toàn 
Ném tung chẳng vỡ như nồi đất 
Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang 
Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão 
Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”


Phải! 
Lửa to mới biết sáp hay vàng! 
Em hãy là vàng, 
Mặc ai chọn sáp! 
Tôi vui sướng cùng em 
Yêu giấc “Ngủ đồng” 
Hiên ngang khí phách: 

“Sách truyền sướng nhất chức Quận công 
Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng 
Lồng lộng trời hè muôn làn gió 
Đêm thanh sao sang mát thu không 
Nằm ngữa ung dung như khanh tướng 
Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng 
Tinh tú bao quanh hồn thời đại 
Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong” 


Tôi biết chí em khi "Qua đèo Ngang” 
Ung dung xướng họa với người anh hùng 
Đã làm quân thù khiếp sợ: 

“Ta đi qua đèo Ngang 
Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm 
Đỉnh dốc chênh vênh 
Xe mù bụi cuốn 
Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ 
Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ 
Điệp điệp núi cao 
Trùng trùng rừng thẳm. 
Người thấy 
Súng gác trời xanh 
Gió lùa biển lớn 
Nông dân rộn rịp đường vui 
Thanh Quan nàng nhẽ có hay 
Cảnh mới đã thay cảnh cũ. 
Ta hay 
Máu chồng đất đỏ 
Mây cuốn dặm khơi 
Nhân công giọt giọt mồ hôi 
Hưng Đạo thầy ơi có biết 
Người nay nối chí người xưa 

Tới đây 
Nước biếc non xanh 
Biển rộng gió đùa khuấy nước 
Đi nữa 
Đèo sâu vực thẳm 
Núi cao mây giỡn chọc trời 

Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai 
Thương dân nước, thà sinh phận gái 
“Hoành Sơn cổ lũy” 
Hỏi đâu dấu tích phân tranh? 
Chỉ thấy non sông 
Lốc cuốn, bốn phương sấm động. 

Người vì việc nước ra đi 
Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế 
Điều không hẹn mà xui gặp mặt 
Vô danh lại gặp hữu danh 
Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau 
Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất 
Anh em ta ngự trên xe đạp 
Còn Người thì lại đáp com măng 
Đường xuyên sơn 
Anh hùng gặp anh hùng 
Nhìn sóng biển Đông 
Như ao trời dưới núi. 

Xin kính chào 
Bậc anh hùng tiền bối 
Ta ngưỡng mộ Người 
Và tỏ chí với non sông 
Mẹ hiền ơi! 
Tổ Quốc ơi! 
Xin tiếp bước anh hùng!” 


Hãy cố lên em! 
Noi gương danh nhân mà lập chí 
Ta với em 
Mình hãy kết thành đôi tri kỷ! 
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương 
Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em: 

"Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền 
Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên 
Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ 
Thương dân, yêu nước quyết báo đền 
Văn hay thu phục muôn người Việt 
Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên 
Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn 
Nối chí ông, nay cháu tiến lên!” 


Tôi thương mến em 
Đã chịu khó luyện rèn 
Biết HỌC LÀM NGƯỜI ! 
Học làm con hiếu thảo. 
Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo” 

Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo 
Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương 
Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp 
Giọng líu lo như chim hót ven đường. 

Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu 
Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn 
Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến 
Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!


Tổ Quốc đang chờ em phía trước. 
Em ơi em, can đảm bước chân lên!

1970