Đến Thái Sơn nhớ Đào Duy Từ (*)
Ngược gió đi không nản
Rừng thông tuyết phủ dày
Ngọa Long cương đâu nhỉ
Đầy trời hoa tuyết bay! (**)
Hoàng Kim(*) Đào Duy Từ đền
thờ ở Phụng Du, Hoài Hảo, Hoài Nhơn- ảnh Văn Lưu, Báo Bình Định.
Đến Thái Sơn, nhớ Đào Duy Từ. Viếng đức Khổng Tử, cảm khái nhớ người Thầy của đất phương Nam.
Nhớ
Đào Duy Từ là chuyên luận Hoàng Kim vinh danh người Thầy có công đức
lớn với dân tộc Việt góp phần quy non sông về một mối, sáng nghiệp
nhà Nguyễn, thịnh trị Đàng Trong, mở đất phương Nam. Chuyên luận gồm tập hợp những bài viết đã đăng từ trước
Đào Duy Từ còn mãi với non sông;
Giai thoại Đào Duy Từ;
Thêm những hiểu biết về Đào Duy Từ; Đến Thái Sơn nhớ Đào Duy Từ.
ĐÀO DUY TỪ CÒN MÃI VỚI NON SÔNG
Đào Duy Từ là nhà chính trị quân sự lỗi lạc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, công thần số một của nhà Nguyễn (gồm các
chúa Nguyễn tiền thân của
nhà Nguyễn,
triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam) . Sự nghiệp của ông là đặc
biệt to lớn đối với dân tộc và thời đại mà ông đã sống. Ông bắt đầu thi
thố tài năng từ năm 53 tuổi đến năm 62 tuổi thì mất. Đào Duy Từ chỉ
trong 9 năm ngắn ngủi (1625-1634) đã kịp làm nên kỳ tích phi thường: Giữ
vững cơ nghiệp của chúa Nguyễn ở Đàng Trong chống cự thành công với họ
Trịnh ở phía Bắc; Mở đất phương Nam làm cho Nam Việt thời ấy trở nên
phồn thịnh. Đặt nền móng vững chắc cho triều Nguyễn, sửa sang chính trị,
quan chế, thi cử, võ bị, thuế khóa, nội trị, ngoại giao.
Sau khi
ông mất (1634) triều Nguyễn còn truyền được 8 đời (131 năm), cho đến năm
1735, khi Vũ Vương mất, thế tử chết, Trương Phúc Loan chuyên quyền,
lòng người li tán, nhà Tây Sơn nổi lên chiếm đất Quy Nhơn, họ Trịnh lấy
đất Phú Xuân, thì cơ nghiệp nhà Nguyễn mới bị xiêu đổ.
Đào Duy Từ
mang tâm nguyện và chí hướng lớn lao như vua Trần Thái Tông “Nếu chỉ để
lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách
cho thiên hạ trước đã”. Di sản của ông không chỉ là trước tác mà còn là
triều đại. Ông là nhà thực tiễn sáng suốt có tầm nhìn sâu rộng lạ
thường. Ngay trong trước tác của ông cũng rất chú trọng gắn thực tiễn
với lý luận. Ông đặc biệt chú trọng thực tiễn mà không theo lối khoa
trương, hủ nho của người đương thời. Tác phẩm binh thư “Hổ trướng khu
cơ” gắn với những danh tướng cầm quân lỗi lạc một thời Nguyễn Hữu Dật,
Nguyễn Hữu Tiến. "Vũ khúc, tuồng cổ Sơn Hậu" gắn với di sản văn hóa Huế
lưu truyền mãi cho đến tận ngày nay. Việc sửa sang chính trị, quan chế,
thi cử, võ bị, thuế khóa, nội trị, ngoại giao gắn với hệ thống chính trị
tiến bộ hợp lòng dân. Ông thật xứng danh là bậc kỳ tài muôn thuở với
những di sản còn mãi với non sông.
Những di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu về Đào Duy Từ gồm có:
Đào Duy Từ với Lũy Thầy, Quảng Bình
Theo
Trang thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình ”
Năm
Canh Ngọ 1630, ông chủ xướng việc thiết kế và chỉ đạo xây dựng hai công
trình phòng thủ quan trọng là Lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc, tỉnh
Quảng Bình (1630) và Lũy Thầy từ cửa sông Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu (Đồng
Hới, tỉnh Quảng Bình). Đây là chiến lũy quan trọng, giúp chúa Nguyễn có
thể phòng thủ hiệu quả trước nguy cơ tấn công của quân Trịnh.” Sách
Việt Nam sử lược có viết chi tiết về việc Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật,
Nguyễn Hữu Tiến đã giúp chúa Nguyễn bày mưu định kế, luyện tập quân lính
xây đồn đắp lũy để chống với quân họ Trịnh. Người đời thường gọi là lũy
Thầy, nghĩa là lũy của Đào Duy Từ đắp ra.
Theo tài liệu của Trương Quang Nam (báo Thanh Niên) được đặng lại bởi trang lịch sử Việt Nam .“
Năm
1992, Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao đã ra quyết định công nhận di
tích lịch sử đối với hệ thống Lũy Thầy tại thị xã Đồng Hới và huyện
Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình với nhiều giá trị to lớn. Tại hồ sơ lưu ở
Ban Quản lý di tích – danh thắng tỉnh Quảng Bình, lũy Thầy là một hệ
thống thành lũy bằng đất, đá được hình thành trong thời gian 3 năm
(1630-1634) với tổng chiều dài gần 34 km gồm lũy Trường Dục, lũy Trấn
Ninh (lũy Đầu Mâu) và lũy Trường Sa. Lũy Thầy là một công trình kiến
trúc quân sự có giá trị trong việc nghiên cứu lịch sử xây dựng thành lũy
ở Việt Nam, thể hiện sự kết hợp một cách khoa học giữa thành lũy, sông
ngòi, hầm hào liên hoàn, hỗ trợ cho nhau. Ngoài công dụng quân sự, lũy
còn có tác dụng về nông nghiệp, thủy nông, thủy lợi như ngăn gió bão,
gió mùa, hạn chế cát bay. Và nhiều nét sinh hoạt văn hóa khác gắn liền…
Trong
cả hệ thống, lũy Đầu Mâu thuộc làng Lệ Kỳ, xã Vĩnh Ninh, huyện Quảng
Ninh được cho là còn khá nguyên vẹn. Năm 1631, sau khi xây xong lũy
Trường Dục, chúa Nguyễn chưa yên tâm bèn sai Đào Duy Từ và Nguyễn Hữu
Dật đi Quảng Bình xem xét hình thế núi sông vùng Đông Hải để xây thêm
thành lũy phòng ngự. Khảo sát xong, Đào Duy Từ tâu: Thần xem từ cửa Nhật
Lệ đến núi Đầu Mâu, phía ngoài có nước khe, bùa lũy sâu rộng. Nguyễn
Phúc Nguyên đồng ý cho xây ngay. Bia Định Bắc Trường Thành mô tả lũy Đầu
Mâu như sau: “Lũy Đầu Mâu cao 1 trượng 5 thước (tương đương 6m), phía
ngoài đóng cọc gỗ lim, phía sau cọc tre, đổ đất lên 5 tầng cấp để voi
ngựa có thể bước lên và di chuyển dễ dàng trên mặt lũy. Cứ cách 3-5
trượng thì xây 1 pháo đài để đặt 1 súng thần công, cứ cách 1 trượng thì
đặt 1 súng phóng đá, sỏi – tất cả tạo thành một công trình phòng thủ
hiểm yếu và kiên cố nhất”. Lũy có chiều dài 12 km.”
Đền thờ Đào Duy Từ ở làng Hoa Trai, Tỉnh Gia, Thanh Hóa
Đào Duy Từ theo trang thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa
là người làng Hoa Trai, Ngọc Sơn, Tỉnh Gia, Thanh Hóa. Nơi đây có đền
thờ của ông. Huyện Tỉnh Gia hiện là điểm đến của du khách “Sự kết hợp
hài hòa giữa các cảnh quan biển, đảo, đồng bằng, trung du và miền núi đã
tạo cho Tĩnh Gia thế mạnh phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là du
lịch. Ðến với Tĩnh Gia, du khách không thể không ghé thăm những địa danh
nổi tiếng như: Hòn Bảng, Hòn Biện Sơn, Hòn Mê, núi Ngọc Sơn, núi Am,
núi Thề Nguyền, hồ Yên Mỹ, động Trúc Lâm, nhà thờ Bùi Thị Xuân, di tích
kiến trúc núi đá nghệ thuật thờ Quận công Lê Ðình Châu, nhà thờ xứ Ba
Làng xây dựng năm 1893, đền thờ Lương Chí thờ Ðào Duy Từ,… Tất cả tạo
thành quần thể du lịch vô cùng độc đáo, là sự tổng hoà giữa những cảnh
đẹp do thiên nhiên ban tặng cùng các truyền thuyết, dấu tích lịch sử.”
Cụm di tích Lạch Bạng theo trang Du lịch Sẩm Sơn có:
“Chùa Đót Tiên, đền thờ Quang Trung, nhà thờ Ba Làng là một trong số
nhà thờ được xây dựng sớm nhất ở Việt Nam. Trên đường về thành phố Thanh
Hóa, du khách dừng lại làng Hoa Trai ( Nguyên Bình – Tĩnh Gia ) để dâng
hương tại đền thờ Đào Duy Từ – một danh nhân văn hóa ở quê Thanh.”
Đền thờ Đào Duy Từ tại làng Tùng Châu, Hoài Nhơn
Sau
khi Đào Duy Từ qua đời năm 1634, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho đưa thi
hài ông về mai táng và lập đền thờ tại làng Tùng Châu thuộc xã Hoài
Thanh (Hoài Nhơn). Di tích lăng mộ Đào Duy Từ theo Cao Văn Phụng Hoài Nhơn Online “nay
thuộc địa phận thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn. Năm Gia
Long 4 (1805) nhà Nguyễn xét công trạng khai quốc công thần, Đào Duy Từ
được xếp hàng đầu, được cấp 15 mẫu tự điền và sáu người trông coi phần
mộ. Đến năm Minh Mệnh 17 (1836), triều đình lại sai dân sở tại sửa chữa
lăng mộ cho ông. Trải qua thời gian và chiến tranh, lăng mộ ông bị hư
hại nhiều. Lần sửa sang gần đây nhất tiến hành năm 1999.
Di
tích Nhà thờ Đào Duy Từ hiện tại thuộc thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh
Tây, huyện Hoài Nhơn. Nhà thờ nằm trong khuôn viên một thửa đất hình chữ
T có diện tích 1.616m2 , được xây dựng vào năm Tự Đức 12 (1859), đã
trãi qua nhiều lần trùng tu. Nhà thờ có tam quan cao khoảng 6m, hai mái
lợp ngói âm dương, trên có bốn chữ lớn “Quốc công từ môn” (cổng đến thờ
Quốc công) ghép bằng mảnh sứ, hai bên đắp phù điêu hình hai con dơi cách
điệu, đường nét khá sắc sảo, bốn trụ góc có hình rồng uốn lượn. Qua Tam
Quan có sân nhỏ hình chữ nhật, kích thước 6,9 m x 7,8 m. tiếp đến là
bình phong đắp hình long mã lưng có hà đồ nỗi trên mặt nước, mặt sau đề
bốn chữ “Bách thế bất di” (Trăm đời không thay đổi). Ở hai bên là đôi
câu đối nhắc đến lai lịch Đào Duy Từ: “Ngọc sơn chung tú Bắc/ Bồng lãnh
hiển danh Nam”. Cách đều bình phong 2,6m về hai bên có hai cột trụ cao
4m, trên đỉnh đắp tượng hạc đứng chầu đối xứng, phía sau là sân lớn hình
chữ nhật với kích thước 15,4m x 14m. qua sân lớn đến nhà thờ được thiết
kế kiểu nhà mái lá, một kiểu kiến trúc truyền thống ở Bình Định. Khám
thờ bên trong có bài vị của Đào Tá Hán , Nguyễn Thị Minh (thân phụ và
thân mẫu của Đào Duy Từ), Đào Duy Từ và vợ. Trên bài vị Đào Duy Từ có
dòng chữ “ô Thủy tổ khảo nội tán lộc khê hầu Đào Công, tặng khai quốc
công thần, đặc tiến Vinh lộc đại phu, Đông các đại học sỹ, Thái sư,
nhưng thủy Trung Lương, phong Hoàng Quốc Công thần chủ” Bài vị của vợ
Đào Duy Từ viết “ôThủy tổ tỉ nội tán Lộc khê hầu Hoàng Quốc Công phu
nhân, Trinh thục cao thị thần chủ”. Trong nhà thờ còn có đôi câu đối
nhưng nay đã sứt mòn, mờ không đọc được.
Di tích nhà thờ
Đào Duy Từ tại thôn Cự Tài thuộc xã Hoài Phú, huyện Hoài Nhơn. Sách Đại
Nam Nhất Thống Chí và Đồng Khánh Dư Địa Chí đều chép đền thờ Hoàng Quốc
Công Đào Duy Từ ở thôn Cự Tài, huyện Bồng Sơn (nay là Hoài Nhơn). Trong
chiến tranh nhà thờ này đã bị sụp đổ. Năm 1978 dòng họ Đào xin kinh phí
của tỉnh Nghĩa Bình để xây dựng lại đền thờ trên nền cũ hiện chỉ còn
lại hai trụ cổng và tấm đại tự cũng đề “Quốc Công từ môn” (giống như nhà
thờ ở thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây) là dấu tích kiến trúc năm Tự
Đức thứ 32 (1880) và lần trùng tu năm Khải Định thứ 1 (1861). Trong đền
thờ khám thờ là bài vị Đào Duy Từ cũng ghi giống như bài vị bên nhà thờ
thôn Ngọc Sơn. Ngoài ra, tại thôn Ngọc Sơn còn có lăng Đào Tá Hán.
Truyền rằng khi đã làm quan ở Thuận Hóa, Đào Duy Từ cho đắp mộ phụ thân
rồi tung tin rằng đã đưa hài cốt cha mẹ vào đây để phòng việc trả thù
của họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Lăng mộ hiện nằm trên một quả đồi rộng. Cũng
tại Ngọc Sơn hiện có một ngôi chùa nhỏ, tương truyền là nơi đi tu của bà
vợ cả họ Cao
Những di tích kể trên, theo đơn vị
hành chính hiện nay, nằm ở các thôn, xã khác nhau (lăng mộ Đào Duy Từ
tại thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, nhà thờ và lăng mộ Đào Tá Hán tại thôn
Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây và nhà thờ ở thôn Cự Tài, xã Hoài Phú) nhưng
tất cả vốn đều thuộc vùng đất của trại Tùng Châu xưa. Đây là những xã
thôn mà hiện nay con cháu Đào Duy Từ còn rất đông đảo, đặc biệt là ở
thôn Cự Tài.
Hàng năm vào ngày 17 tháng 10 (âm lịch) là
ngày giỗ Đào Duy Từ, con cháu họ Đào tổ chức cúng tế rất long trọng.
Theo quy ước, cứ vào dịp này con cháu dòng tộc đều nghỉ việc đồng áng
trong ba ngày. Sau khi làm lễ thắp hương tại lăng mộ Đào Duy Từ (thôn
Phụng Du) con cháu về họp mặt và dâng hương tại đền thờ cha mẹ và vợ
chồng Đào Duy Từ ở thôn Ngọc Sơn rồi sau đó mới trở về tế lễ chính thức
tại đền thờ Đào Duy Từ ở thôn Cự Tài. Ngoài ngày giỗ chính (17 tháng
10), hàng năm tại các di tích trên còn có 5 ngày lễ phụ vào dịp Đông
chí, Chạp mả, Thanh minh, Trung thu và Tết Nguyên đán. Ngày giỗ Đào Duy
Từ cũng là ngày con cháu phối hợp cúng tế thân phụ và thân mẫu cùng vợ
của ông. Duy bà vợ cả còn có ngày riêng là 12 tháng 2 âm lịch tại chùa
tu của bà ở thôn Tài lương. Giỗ bà hàng năm( gọi là tiểu chẩn) chỉ sửa
cơm chay, cứ mười năm (gọi là trung chẩn) thì lễ vật có thêm đôi chim
sống, một đôi gà sống cúng xong thả chim gà ra rồi con cháu thi nhau
đuổi bắt, cứ 30 năm (đại chẩn) mới sửa cỗ mặn.
Có đến
tận nơi mảnh đất Tùng Châu xưa mới thấy hết dấu ấn và ảnh hưởng lớn lao
của Đào Duy Từ đối với vùng đất này. Không chỉ có con cháu họ Đào nơi
đây tự hào về vị tổ tiên của mình mà tất cả mọi người dân nơi đây đều tự
hào về ông. Cuộc đời và sự nghiệp Đào Duy Từ đã trở thành niềm tự hào
chung của dân Hoài Nhơn, của nhân dân Bình Định. Cuộc hành hương đưa ta
trở về mảnh đất nơi xưa Đào Duy Từ thác làm kẻ chăn trâu cho phú ông
không mấy khó khăn. Từ thị trấn Bồng Sơn ruổi theo Quốc lộ 1A khoảng 7
km tới cột cây số 1138 rồi rẽ hướng tây là sẽ đến các địa chỉ cần tìm.
Cỏ trên mộ ông luôn ấm hơi người, của con cháu, của bà con nơi đây, của
khách thập phương. Bởi cuộc đời đầy những tình tiết ly kỳ của ông, bởi
tấm lòng của ông với vùng đất quê hương thứ hai này, và bởi sự nghiệp
lẫy lừng của ông với chúa Nguyễn, với nhân dân Đàng Trong vẫn sẽ còn
sống mãi với thời gian.”
Đền thờ Đào Duy Từ ở làng Lạc Giao, Buôn Ma Thuột
Theo
Báo Bình Định ,Trần Xuân Toàn đã giới thiệu đền thờ Đào Duy Từ ở làng Lại Giao thành phố Buôn Mê Thuột : “
Đình
Lạc Giao phường Thống Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột, được lập năm 1929,
là ngôi đình làng đầu tiên của những người Việt (Kinh) từ đồng bằng lên
đây lập nghiệp, thờ vị thành hoàng làng là Đào Duy Từ.
Ngôi
đình ban đầu làm bằng tranh tre, năm 1932, ngôi đình được xây dựng lại
bằng gạch lợp ngói theo hình chữ Môn, gồm có nhà thờ Thần Hoàng và những
người có công với nước, hai nhà tả hữu hai bên dùng làm nơi hội họp mỗi
khi tế lễ, phía trước có cổng tam quan đi vào, sau cổng có bức bình
phong có chạm khắc hổ phù, sau nữa là một lư hương lớn. Làng Lạc Giao
hình thành bắt đầu từ những người bị tù lưu đày xa xứ, rồi những dân
phiêu bạt từ các vùng đất miền Trung nghèo khó tìm nơi lập nghiệp sinh
sống, rồi những công chức, thầy giáo, binh lính được bổ nhiệm lên vùng
đất xa xôi Ban đầu chỉ dăm nóc nhà dọc theo con đường suối Ea Tam, xóm
người Việt ấy được gọi là thôn Nam Bang. Họ làm rẫy dọc theo khu rừng
già ven suối, bên cạnh một buôn của Ama Thuột.
Năm 1924, họ gọi xóm
người Việt di cư đến là Lạc Giao với ý nghĩa: Lạc là con Lạc cháu Hồng,
Giao nghĩa là nơi bang giao Kinh – Thượng. Tên gọi Lạc Giao là lời
nguyền giao ước an cư lạc nghiệp của đồng bào Kinh- Thượng, cùng chung
lưng đấu cật xây dựng vùng đất mới này.
Năm 1925, làng
Lạc Giao được mở rộng bao trùm cả một khu vực rộng lớn ở ngay trung tâm
Buôn Ma Thuột. Tài liệu của đình Lạc Giao ghi: ông Phan Hộ, người Quảng
Nam, vào Ninh Hoà (Khánh Hoà) sinh sống. Thuở ấy, lên cao nguyên Dak Lak
chưa có đường, ông Phan Hộ cùng một số trai tráng đi bằng voi, ngựa
xuyên rừng vài tháng mới tới vùng M’Drak rồi đến Buôn Ma Thuột trao đổi
hàng hoá với người Ê Đê, thấy người dân ở đây giàu lòng mến khách, đất
đai màu mỡ lại dễ làm ăn, nên ông vận động nhiều gia đình lên đây sinh
sống, khai phá đất hoang để lập làng. Nỗi nhớ thương quê nhà bản quán,
anh em khôn nguôi trong lòng những người đi xa quê, làm ăn xứ lạ. Từ đó
họ có nhu cầu gặp gỡ, trao đổi công việc làm ăn, nhất là lễ tết có nơi
cúng kiếng ông bà tổ tiên, nhắc chuyện quê hương làng xóm. Họ đã góp
tiền của công sức dựng nên ngôi đình trên để thoả nỗi ước mong đó. Đình
Lạc Giao ra đời ghi dấu bước chân của người Việt trên mảnh đất cao
nguyên, là nơi mọi người cầu mong sức khoẻ và làm ăn phát đạt, nơi thờ
các vị tiên hiền và người có công với đất nước, nơi sinh hoạt trong
những ngày lễ tết của cư dân Việt trên vùng đất mới.
Năm
1932, vua Bảo Đại ra chiếu sắc phong cho thần hoàng của làng là Đào Duy
Từ, khẳng định đây là đất của “Hoàng triều cương thổ”. Nhân vật được sắc
phong Thần Hoàng là một danh nhân văn hoá, một tài năng lớn trong nhiều
lĩnh vực: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá … đặc biệt ông là người
có công mở mang đất nước, xây dựng nên nhiều vùng đất mới. Hằng năm cứ
đến ngày 27-10 âm lịch, nhân dân Buôn Ma Thuột lại tổ chức ngày tưởng
niệm tại đình …’’
GIAI THOẠI ĐÀO DUY TỪ
Kẻ chăn trâu kỳ dị
Nhà
phú hộ Lê Phú ở thôn Tùng Châu, phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định thuê được
một đứa ở chăn trâu tên là Đào Duy Từ. Tuy đã đứng tuổi, nhưng Duy Từ
tỏ ra rất cần mẫn, siêng năng. Ngày ngày cứ sáng, sớm lùa trâu đi ăn,
mãi chập tối mới đánh trâu về, trời nắng cũng như trời mưa, khiến gia
chủ rất vừa lòng, chưa hề có tiếng chê trách.
Một hôm, phú hộ họ
Lê mời các Nho sĩ hay chữ khắp vùng đến nhà dự hội bình văn. Chập tối,
sau khi tiệc tùng xong, mọi người còn trà thuốc, bàn cãi chữ nghĩa văn
chương, thì vừa lúc Đào Duy Từ chăn trâu về. Thấy đám đông khách khứa
trò chuyện rôm rả, Duy Từ bèn lại gần, đứng ghếch chân lên bậc thềm
nhìn, tay vẫn cầm chiếc roi trâu, vai đeo nón lá, lưng quấn khố vải… Chủ
nhà ngồi phía trong nhìn thấy cho là vô lễ, giận dữ quát:
- Kẻ chăn trâu kia! Hạng tiểu nhân biết gì mà dám đứng nhìn các quan khách đây là những bậc danh Nho ?
Duy Từ nghe mắng song không tỏ ra sợ hãi, cười ha hả, rồi nói một cách thản nhiên:
-
Nho cũng có hạng ”nho quân tử”, hạng ”nho tiểu nhân”. Chăn trâu cũng có
kẻ ”chăn trâu anh hùng”, kẻ ”chăn trâu tôi tớ”, cao thấp không giống
nhau, hiền ngu không là một ! Còn kẻ tiểu nhân tôi chỉ đứng nhìn, có xâm
phạm gì đến cái phú quý, sang trọng của các vị, mà chủ nhân lại mắng
đuổi ?
Mấy người khách nghe Duy Từ là đứa chăn trâu, mà nói lí như vậy, liền vặn hỏi:
- Vậy nhà người bảo ai là “nho quân tử”, ai là “nho tiểu nhân” hả?
Đào Duy Từ chẳng cần nghĩ ngợi, nói luôn một mạch:
-
“Nho quân tử” thì trên thông thiên văn, dưới thấu địa lí, giữa hiểu
việc đời, trong nhà giữ được đạo cha con, tình nghĩa vợ chồng, anh em,
bè bạn, ngoài xã hội thì biết lo việc nước, vỗ yên dân, giúp đời, phò
nguy cứu hiểm, để lại sự nghiệp muôn đời. Còn “nho tiểu nhân” thì chỉ là
bọn học vẹt, cầu danh cầu lộc, khoe ít chữ nghĩa, coi thường hào kiệt,
may được giữ một chức quan nhất thời, thì chỉ tìm trăm phương ngàn kế để
mưu đồ lợi riêng làm sâu mọt hại dân đục nước, thật là đáng sợ !
Đám
khách nghe Duy Từ nói thế, đều giật mình kinh ngạc, không ngờ một đứa
chăn trâu mà lí lẽ cứng cỏi làm vậy, bèn tò mò hỏi thêm:
- Còn ”kẻ
chăn trâu anh hùng”, kẻ ”chăn trâu tôi tớ” thì nghĩa làm sao, nhà ngươi
thử nói nghe luôn thể ?
Duy Từ mỉm cười, ung dung trả lời:
-
”Chăn trâu anh hùng” thì như Ninh Thích phục hưng nước Tề, Điền Đan thu
lại thành trì cho nước Yên, Hứa Do cho trâu uống nước ở khe mà biết được
hưng vong trị loạn, Bạch Lý Hề chăn dê mà hiểu thấu thời vận thịnh suy.
Đó là những kẻ ”chăn trâu anh hùng”. Còn những bọn chỉ biết cam phận
tôi tớ, chơi bời lêu lổng, khi vui thì reo hô hoán, khi giận thì chửi
rủa, đánh đấm, chẳng kể gì thân sơ, làm cha ông phải xấu lây, xóm làng
chịu điều oan. Đấy là hạng ”chăn trâu tiểu nhân” cả !
Mọi người
nghe Duy Từ đối đáp trôi chảy, sách vở tinh thông, nghĩa lí sâu sắc,
càng thêm kinh ngạc, nhìn nhau, rồi đứng cả dậy, bước ra ngoài thềm mời
Duy Từ cùng vào nhà ngồi. Nhưng Duy Từ vẫn tỏ ra khiêm tốn chối từ. Cả
bọn bèn dắt tay Duy Từ lên nhà, ép ngồi vào chiếu trên.
Gã phú hộ
Lê Phú rất đỗi ngạc nhiên, thấy kẻ đầy tớ chăn trâu nhà mình mà nói toàn
chữ nghĩa nên còn ngờ, bèn giục mấy nhà Nho văn hỏi thêm, thử sức Duy
Từ về kiến thức, sách vở cổ kim xem hư thực ra sao.
Các vị Nho học
nhất vùng hỏi đến đâu, Đào Duy Từ đều đối đáp trôi chảy đến đó và tỏ ra
không có sách nào chưa đọc đến, không có chữ nào không thấu hiểu, khiến
cho cả bọn phải thất kinh, bái phục sát đất !
Chủ nhà cũng không kém phần sửng sốt, mới vỗ vai Duy Từ, đổi giận làm lành, mà rằng:
-
Tài giỏi như thế, sao bấy lâu cứ giấu mặt không cho lão già này biết,
để đến nỗi phải chăn trâu và chịu đối xử bạc bẽo theo bọn tôi tớ ? Quả
lão phu có mắt cũng như không. Có tội lắm ! Có tội lắm!
Từ đó chủ nhà may sắm quần áo mới xem Duy Từ là khách quý, mời ngồi giảng học, đối đãi hết sức trọng vọng.
Đổi họ để đi thi
Đào
Duy Từ vốn người Đàng Ngoài , quê gốc ở làng Hoa Trai, nay thuộc xã
Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Bố là Đào Tá Hán, trước làm lính
cấm vệ trong triều, thời Lê – Trịnh. Một hôm, nhân lúc nổi hứng, Tá Hán
đã sáng tác bài thơ ca ngợi chúa Trịnh như sau:
Trang quốc sử ai bằng Trịnh Kiểm
Tỏ thần uy đánh chiếm hai châu
Thẳng đường rong ruổi vó câu
Phù Lê, diệt Mạc trước sau một lời…
Tá
Hán liền bị quy là phạm thượng, trong thơ dám nói cả tên húy của chúa
là Trịnh Kiểm. Ông bị tội phạt đánh đòn 20 roi và bị đuổi về nhà làm dân
thường.
Nhờ có tài đàn hát nên Tá Hán bèn đi theo một gánh hát để
kiếm sống và ít lâu sau đã trở thành kép hát tài giỏi, nổi tiếng khắp
vùng.
Có lần, gánh hát đến diễn ở làng Ngọc Lâm trong huyện. Đào
Tá Hán trọ trong nhà vị tiên chỉ của làng này là Vũ Đàm. Ông tiên chỉ họ
Vũ có cô cháu gái là Vũ Thị Kim Chi đem lòng yêu Tá Hán. Lúc đầu Tá Hán
sợ phận mình nghèo khổ, khó kết thành vợ chồng. Nhưng sau khi nghe
người nhà vị tiên chỉ thuyết phục rằng cô Chi có sẵn vốn liếng làm ăn,
không phải lo nghèo chẳng nuôi nổi vợ, nên Tá Hán nghe theo.
Họ
làm lễ thành hôn rồi mua đất, dựng nhà ở Hoa Trai, sau hơn một năm thì
sinh ra Đào Duy Từ. Khi Duy Từ lên năm, chẳng may bố bị bệnh mất. Người
mẹ chịu ở góa, một mình ngược xuôi tần tảo quyết nuôi cho con ăn học.
Duy Từ tỏ ra rất sáng dạ, lại ham mê đèn sách, báo trước khả năng có thể
thành đạt trên bước đường cử nghiệp.
Thế nhưng số phận thật là
oái oăm! Theo luật lệ của triều đình bấy giờ, thì con cái những người
làm nghề ca xướng đều không được quyền thi cử. Bà Kim Chi tiếc cho tài
học của con, bèn thu gom vay mượn tiền bạc đến đút lót cho viên xã
trưởng làng Hoa Trai là Lưu Minh Phương, để nhờ đổi họ Đào của con theo
cha thành họ Vũ của mẹ, mong sao Duy Từ được dự kì thi Hương sắp tới
.Viên xã trưởng thấy người vợ góa của Đào Tá Hán còn nhan sắc, nên nhận
lời và ra điều kiện nếu xong việc thì phải lấy y.
Theo một vài tài
liệu cho biết Đào Duy Từ đã dự khoa thi Hương năm 1593 đời vua Lê Thế
Tông (l 567-1584) và đã đỗ á nguyên (thứ hai). Ông được mẹ khuyến khích
dự tiếp kì thi Hội. Lúc này Duy Từ mới 2l tuổi.
Thấy việc đổi họ
cho Duy Từ đi thi đã trót lọt, xã trưởng họ Lưu bèn đòi bà Kim Chi thực
hiện giao ước tái giá về làm vợ mình. Bà Chi cứ lần chần, chối khéo, với
lí do con mới thi đỗ, mẹ làm thế sẽ khó coi…
Viên xã trưởng tức
giận, đem chuyện trình bày với tri huyện Ngọc Sơn, vốn là chỗ thân quen,
để nhờ áp lực quan trên bắt bà mẹ Duy Từ phải thực hiện giao ước.
Viên
tri huyện biết chuyện liền lập tức mật báo lên trên. Lúc này Duy Từ
đang dự kì thi Hội. Bài Từ làm rất hay, chỉ có một điểm lập luận chưa
vừa ý chúa, nên quan chủ khảo là Thái phó Nguyễn Hữu Liêu đang còn cân
nhắc.
Giữa lúc đó thì có tin “sét đánh” ập đến lệnh triều đình
truyền xuống đòi xóa ngay tên Vũ Duy Từ, hủy bỏ bài thi, lột hết mũ áo
được ban, bắt ngay để tra xét. Đồng thời, gửi trát về cho tri huyện Ngọc
Sơn trừng trị những kẻ liên đới.
Luật lệ thời đó quy định xử phạt
rất nặng những ai dám phạm vào quy chế thi cử. Sắc chỉ vua Lê về các kì
thi Hương đã ghi: ”Nếu người nào mà bị nghi gian thì bắt giữ đích thân
đem việc tâu lên để trên xét”. Vì thế, ngay sau đó, Đào Duy Từ đã bị
giam giữ, xét hỏi.
Ở quê bà Vũ Thị Kim Chi cũng không tránh khỏi
sự truy xét. Bà vừa lo cho tính mạng của con, vừa oán giận sự khắc
nghiệt, bất công của triều đình, nên đã phẫn uất đi đến tự tử.
Duy Từ biết tin mẹ mất, nhưng không được về chịu tang, thương cảm quá thành bệnh ngày càng nguy kịch.
Chính
trong thời gian Đào Duy Từ gặp cảnh ngộ éo le này, thì chúa Nguyễn
Hoàng (1558-1613), cát cứ ở Đàng Trong, đang làm chuyến du hành ra Bắc
với mục đích chúc mừng chúa Trịnh diệt được họ Mạc, luôn thể dò la tình
hình của xứ Đàng Ngoài và thăm viếng phần mộ của cha ông xây cất ở vùng
Tống Sơn (nay là huyện Hà Trung), Thanh Hóa.
Nguyễn Hoàng có đến
thăm Thái phó Nguyễn Hữu Liêu nên tình cờ nghe được chuyện ông này kể về
tài năng và số phận hẩm hiu của người học trò nghèo Đào Duy Từ. Chúa
Nguyễn đang nuôi ý đồ xây dựng cơ nghiệp riêng ở Đàng Trong nên muốn
”chiêu hiền đãi sĩ” lôi kéo người tài xứ Bắc về mình. Vì thế, khi biết
chuyện Duy Từ, chúa đem lòng ái mộ, cảm mến, ngầm giúp Từ tiền bạc để
sinh sống, chạy chữa thuốc men.
Giai thoại dân gian kể rằng, trước
lúc trở về Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đã đến thăm Đào Duy Từ. Chúa chợt
thấy trên vách buồng Duy Từ đang ở có treo bức tranh cầu hiền vẽ ba anh
em Lưu Bị thời Tam Quốc bên Tàu lặn lội tìm đến đất Long Trung để vời
đón Gia Cát Lượng là một bậc hiền tài.
Nguyễn Hoàng bèn chỉ lên bức tranh, tức cảnh đọc mấy câu thơ để tỏ lòng cầu hiền của chúa và cũng để dò xét tâm ý Đào Duy Từ:
Vó ngựa sườn non đá chập chùng
Cầu hiền lặn lội biết bao công
Duy Từ bèn đọc tiếp:
Đem câu phò Hán ra dò ý
Lấy nghĩa tôn Lưu để ướm lòng. ..
Nguyễn Hoàng nối thêm:
Lãnh thổ đoạn chia ba xứ sở
Biên thùy vạch sẵn một dòng sông
và Duy Từ kết
Ví như chẳng có lời Nguyên Trực
Thì biết đâu mà đón Ngọa Long
Thế
nhưng, kể từ khi có cuộc hội ngộ này, phải đến chục năm sau, Đào Duy Từ
mới trốn được vào Nam. Lúc đó, Nguyễn Hoàng đã mất và ông phải đi ở
chăn trâu cho nhà hào phú ở đất Tùng Châu, để chờ thời đem tài trí của
mình cống hiến cho xã hội.
Bước ngoặt cuộc đời
Sau
buổi đối đáp với các nhà nho ở Tùng Châu, tiếng tăm Đào Duy Từ – một kẻ
chăn trâu kì lạ, tài giỏi hơn người, lan truyền khắp nơi. Bấy giờ có vị
quận công, anh em kết nghĩa với chúa Nguyễn, rất có thế lực, là Khám lí
Trần Đức Hòa hay tin. Ông này cho đón Đào Duy Từ đến nhà chơi. Qua các
buổi chuyện trò, đàm đạo văn chương, Khám lí họ Trần đã nhận thấy Duy Từ
có học vấn uyên bác, lại tỏ ra chí lớn hơn người, bèn đem lòng yêu quý
và gả người con gái là Trần Thị Chính cho Từ làm vợ.
Khi đã có
chốn nương thân vững chắc Đào Duy Từ mới dần dà lộ rõ chí hướng phò vua
giúp nước đã nung nấu suốt mấy chục năm cho bố vợ biết. Ông đưa tác phẩm
“Ngọa Long cương vãn” của mình cho Trần Đức Hoà xem. Nội dung bài chính
là nỗi lòng của Duy Từ, tự ví mình như Gia Cát Lượng (là một nhà quân
sự, chính trị nổi tiếng bên Trung Quốc, vì chưa được thi thố tài năng,
nên còn ẩn náu ở chốn Ngọa Long). Nỗi lòng đó của Duy Từ được thể hiện
rõ ở đoạn kết:
Chốn này thiên hạ đã dùng
Ắt là cũng có Ngọa Long ra đời
Chúa hay dùng đặng tôi tài
Mừng xem bốn bể dưới trời đều yên
Khám
lí Trần Đức Hòa xem đi xem lại bài ”Ngọa Long cương” của con rể, thấy
văn từ khoáng đạt, điển tích tinh thông, ý chí mạnh mẽ, hoài bão lớn
lao, đã tấm tắc khen, rồi tìm cách dâng lên chúa Nguyễn xem để tiến cử
Duy Từ với chúa.
Bấy giờ chúa Nguyễn là Sãi Vương Nguyễn Phúc
Nguyên (16l3- l635) đang có ý định kén chọn nhân tài, để dựng nghiệp
lớn, nên khi xem xong bài vãn của Đào Duy Từ đã rất tâm đắc, bèn lệnh
cho Khám lí Trần Đức Hòa dẫn ngay người con rể vào gặp chúa.
Gia
đình nhà vợ vội may sắm quần áo, khăn mũ hợp nghi thức để Duy Từ mặc vào
chầu cho thật chỉnh tề nhưng Duy Từ nhất mực từ chối, viện lẽ rằng mình
không dám dùng, vì chưa có chức tước!
Trước buổi tiếp, Sãi Vương
muốn thử tư cách Đào Duy Từ, nên chúa mặc y phục xuềnh xoàng, cầm gậy
đứng trước cửa, thái độ lơ đãng, như chờ một kẻ hầu nào đấy.
Từ xa, Đào Duy Từ đã nhìn thấy vẻ thờ ơ của chúa, bèn giả tảng hỏi bố vợ:
- Người kia là ai vậy, thưa cha?
Trần Đức Hòa sợ hãi, trả lời:
- Ấy chết! Sao con dám hỏi vậy? Vương thượng đấy, Người đứng chờ, con mau mau đến bái lạy!
Duy
Từ nghe bố vợ nói, chỉ cười nhạt rồi quay lại chực không đi nữa. Khám
lí Trần đi trước, ngoảnh lại thấy con rể bỏ về, sợ khiếp đảm, liền níu
lại quở trách:
- Con làm thế này thì tội phạm thượng sẽ trút lên đầu cha
Duy Từ đáp:
-
Thưa cha, vì con thấy chúa đang trong tư thế đi dạo với các cung tần mỹ
nữ, chứ không có nghi lễ gì gọi là tiếp đón khách hiền. Nếu con lạy
chào tất phạm vào tội khinh vua.
Nghe con rể nói vậy, ông bố vợ
lại càng thất kinh, cáu kỉnh cầm tay Duy Từ bắt trở lại ngay, để lạy
chào chúa, không được để chúa phải chờ. Nhưng Duy Từ vẫn dùng dằng không
chịu nghe lời.
Từ xa, Sãi Vương đã để ý quan sát thấy tất cả,
biết Đào Duy Từ là kẻ tài giỏi thực, tính khí khái, chứ không giống
những bọn tầm thường, chỉ cốt quỵ lụy, được ra mắt chúa, hòng tiến thân
để kiếm chút bổng lộc, chức tước mà thôi. Chúa bèn quay vào nội phủ,
thay đổi áo quần và bảo thái giám đem áo mũ ban cho Duy Từ, rồi vời vào
sảnh đường tiếp kiến.
Kể từ buổi đó, Đào Duy Từ được chúa Sãi
Vương tin yêu, trọng vọng, tôn làm quân sư, luôn ở cạnh chúa để bàn bạc
việc quốc gia trọng sự. Ông được phong chức Tán trị, tước Lộc Khê hầu,
nên người đời vẫn quen gọi ông là Lộc Khê.
Tài năng được thi thố
Năm
1627, chúa Trịnh Đàng Ngoài muốn bắt họ Nguyễn ở Đàng Trong thần phục,
bèn cử đoàn sứ giả mang sắc vua Lê vào phong cho Sãi Vương và đòi lễ vật
cống nạp. Chúa Sãi không chịu, nhưng bề ngoài chưa biết xử trí ra sao,
bèn hỏi ý kiến Lộc Khê Đào Duy Từ. Theo một số tư liệu, thì chính Duy Từ
là người khuyên chúa bước đầu cứ nhận sắc phong, rồi sau sẽ tìm kế đối
phó.
Ba năm sau, thấy thời cơ thuận lợi, bấy giờ Lộc Khê mới bàn
với Sãi Vương, sai thợ làm một chiếc mâm đồng có hai đáy, bỏ sắc vua Lê
phong kèm với một tờ giấy có 4 câu chữ Hán vào giữa, rồi hàn kín lại.
Trên mâm cho bày nhiều lễ vật hậu hĩnh, rồi cử sứ giả mang ra Thăng
Long, để tạ ơn vua Lê, chúa Trịnh.
Triều đình Đàng Ngoài nhận được
mâm lễ vật tỏ ý ngờ vực, bèn cho khám phá bí mật ở phía trong và cuối
cùng họ đã phát hiện chiếc mâm có hai đáy. Khi đem đục ra thì thấy có
sắc vua phong dạo trước và tờ giấy viết bốn câu chữ Hán sau:
Mâu nhi vô dịch
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm trường
Lực lai tương địch
Dịch
nghĩa từng câu là: chữ ”mâu” không có dấu phết; chữ ”mịch” bỏ bớt chữ
”kiến”; chữ ”ái” để mất chữ ”tâm” và chữ ”lực” đối cùng chữ ”lai”.
Thoạt
đầu, chúa Trịnh và cả đình thần không ai hiểu bốn câu trên ngụ ý gì.
Sau chúa phải cho vời viên quan thông thái nhất triều vào hỏi, thì mới
vỡ lẽ rằng, trong chữ Hán, chữ ”mâu” viết không có dấu phết thì thành
chữ ”dư”. Chữ ”mịch” mà bỏ chữ ”kiến” thì là chữ “bất”. Chữ ”ái” nếu
viết thiếu chữ ”tâm” thì ra chữ ”thụ” và chữ ”lực để cạnh chữ ”lai” sẽ
là chữ ”sắc”. Gộp cả bốn chữ mới lại thành câu: ”Dư bất thụ sắc”, nghĩa
là ”Ta chẳng chịu phong”.
Chúa Trịnh thấy họ Nguyễn chối từ, trả
lại sắc phong bằng một mẹo kế tài tình, thì vừa tức giận, vừa phục tài,
bèn cho dò la và biết được đều do Lộc Khê Đào Duy Từ bày đặt ra cả. Chúa
tính kế làm sao để lôi kéo Lộc Khê bỏ chúa Nguyễn Đàng Trong về với
triều đình Lê – Trịnh Đàng Ngoài.
Chúa lập mưu sai người mang
nhiều vàng bạc bí mật vào biếu Đào Duy Từ, kèm một bức thư riêng để nhắc
ông rằng tổ tiên, quê quán vốn ở Đàng Ngoài, nếu trở về sẽ được triều
đình trọng vọng, cho giữ chức quan to.
Đào Duy Từ đã trả lại quà tặng và viết bài thơ phúc đáp chúa Trịnh như sau:
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra?…
Chúa
Trịnh đọc thơ biết khó lòng lôi kéo được họ Đào, nhưng thấy bài thơ
chưa có câu kết, ý còn bỏ ngỏ, nên vẫn nuôi hi vọng, bèn cho người đem
lễ vật hậu hơn, cầm thư chúa vào gặp Đào Duy Từ lần nữa.
Lần này, ông mới viết nốt hai câu kết gửi ra, để trả lời dứt khoát việc mời mọc của chúa Trịnh. Hai câu đó như sau:
Có lòng xin tạ ơn lòng
Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen!
Từ
đấy Đào Duy Từ ở lại giúp chúa Nguyễn ổn định và phát triển vùng đất
miền trong, mở mang bờ cõi đất nước ta cho đến lúc qua đời. Ông đã đem
tài trí của mình cống hiến cho xã hội về nhiễu lĩnh vực. Ông là một nhà
quân sự tài ba, kiến trúc sư xây dựng lũy Trường Dục ở Phong Lộc và lũy
Nhật Lệ ở Đồng Hới, thuộc tỉnh Quảng Bình, để chống lại các cuộc tấn
công của quân Trịnh. Lũy Nhật Lệ còn gọi là lũy Thầy (vì chúa Nguyễn và
nhân dân Đàng Trong tôn kính gọi Đào Duy Từ là Thầy).
Lũy này được hoàn
thành năm 163l, có chiều dài hơn 3000 trượng (khoảng hơn l2 km), cao l
trượng 5 thước (khoảng 6 m), mặt lũy rất rộng (voi có thể đi lại được)
cứ cách một quãng lại xây pháo đài để đặt súng thần công. Chiến lũy này
có vị trí gần khe, dựa vào thế núi, chạy dài suốt cửa biển Nhật Lệ,
trông giống hình cầu vồng, có tác dụng chặn được bước tiến của quân
Trịnh trong hàng trăm cuộc giao tranh. Đương thời có các câu ca dao:
Khôn ngoan qua cửa sông La
Dù ai có cánh chớ qua lũy Thầy
“Hữu trí dũng hề, khả quá Thanh Hà
Túng hữu dực hề, Trường lũy bất khả khoa”
Mạnh thì qua được Thanh Hà.
Dẫu rằng có cánh khôn qua lũy Thầy
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước như tranh họa đồ
Yêu anh em cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
Phá Tam Giang bây giờ đã cạn
Truông nhà Hồ, Nội tán cấm nghiêm
THÊM NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ ĐÀO DUY TỪ
“Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay”
“Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra?… ”
“Có lòng xin tạ ơn lòng
Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen!”
Chùm thơ hay gắn với giai thoại Đào Duy Từ
Chùm
thơ này đã có trong dân gian từ lâu. Gọi là chùm thơ vì đây không phải
là một bài mà là ba bài, gieo theo thể liên vận, gắn với “Giai thoại Đào
Duy Từ”. Truyện rằng: “… Năm 1627, chúa Trịnh Đàng Ngoài muốn bắt họ
Nguyễn ở Đàng Trong thần phục, bèn cử đoàn sứ giả mang sắc vua Lê vào
phong cho Sãi Vương (Nguyễn Phúc Nguyên) và đòi lễ vật cống nạp. Chúa
Sãi không chịu, nhưng bề ngoài chưa biết xử trí ra sao, bèn hỏi ý kiến
Lộc Khê Đào Duy Từ. Theo một số tư liệu, thì chính Duy Từ là người
khuyên chúa Sãi bước đầu cứ nhận sắc phong, rồi sau sẽ tìm kế đối phó.
Ba
năm sau, thấy thời cơ thuận lợi, bấy giờ Lộc Khê mới bàn với Sãi Vương,
sai thợ làm một chiếc mâm đồng có hai đáy, bỏ sắc vua Lê phong kèm với
một tờ giấy có 4 câu chữ Hán vào giữa, rồi hàn kín lại. Trên mâm cho bày
nhiều lễ vật hậu hĩnh, rồi cử sứ giả mang ra Thăng Long, để tạ ơn vua
Lê, chúa Trịnh.
Triều đình Đàng Ngoài nhận được mâm lễ vật tỏ ý
ngờ vực, bèn cho khám phá bí mật ở phía trong và cuối cùng họ đã phát
hiện chiếc mâm có hai đáy. Khi đem đục ra thì thấy có sắc vua phong dạo
trước và tờ giấy viết bốn câu chữ Hán sau:
Mâu nhi vô dịch
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm trường
Lực lai tương địch
Dịch
nghĩa từng câu là: chữ ”mâu” không có dấu phết; chữ ”mịch” bỏ bớt chữ
”kiến”; chữ ”ái” để mất chữ ”tâm” và chữ ”lực” đối cùng chữ ”lai”.
Thoạt
đầu, chúa Trịnh và cả đình thần không ai hiểu bốn câu trên ngụ ý gì.
Sau chúa phải cho vời viên quan thông thái nhất triều vào hỏi, thì mới
vỡ lẽ rằng, trong chữ Hán, chữ ”mâu” viết không có dấu phết thì thành
chữ ”dư”. Chữ ”mịch” mà bỏ chữ ”kiến” thì là chữ “bất”. Chữ ”ái” nếu
viết thiếu chữ ”tâm” thì ra chữ ”thụ” và chữ ”lực để cạnh chữ ”lai” sẽ
là chữ ”sắc”. Gộp cả bốn chữ mới lại thành câu: ”Dư bất thụ sắc”, nghĩa
là ”Ta chẳng chịu phong”.
Chúa Trịnh thấy họ Nguyễn chối từ, trả
lại sắc phong bằng một mẹo kế tài tình, thì vừa tức giận, vừa phục tài,
bèn cho dò la và biết được đều do Lộc Khê Đào Duy Từ bày đặt ra cả. Chúa
tính kế làm sao để lôi kéo Lộc Khê bỏ chúa Nguyễn Đàng Trong về với
triều đình Lê – Trịnh Đàng Ngoài.
Chúa lập mưu sai người mang nhiều vàng bạc bí mật vào biếu Đào Duy Từ, kèm một bức thư riêng với bốn câu thơ:
“Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay”
Lời
thơ nói đến chuyện anh và em thuở nhỏ, trèo cây hái hoa bưởi, bước
xuống ruộng cà hái lộc mùa xuân. Tứ thơ trong như ngọc, là lời nhắn
nghĩa tình, nhắc ông rằng tổ tiên, quê quán vốn ở Đàng Ngoài. Nếu trở về
sẽ được triều đình trọng dụng còn nếu không thì ngầm ý khống chế
Tương
truyền Đào Duy Từ đã xây mộ cho cha mẹ tại Bình Định để tránh bị Đàng
Ngoài khống chế theo cách làm của Ngọa Long Gia Cát đón mẹ của Khương
Duy vào Hán Trung thuở xưa. Đào Duy Từ đã trả lại quà tặng và viết bài
thơ phúc đáp chúa Trịnh như sau:
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra?…
Chúa
Trịnh đọc thơ biết khó lòng lôi kéo được họ Đào, nhưng thấy bài thơ
chưa có câu kết, ý còn bỏ ngỏ, nên vẫn nuôi hi vọng, bèn cho người đem
lễ vật hậu hơn, cầm thư chúa vào gặp Đào Duy Từ lần nữa.
Lần này, ông mới viết nốt hai câu kết gửi ra, để trả lời dứt khoát việc mời mọc của chúa Trịnh. Hai câu đó như sau:
Có lòng xin tạ ơn lòng
Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen!
Từ
đấy Đào Duy Từ ở lại giúp chúa Nguyễn ổn định và phát triển vùng đất
miền trong, mở mang bờ cõi đất nước ta cho đến lúc qua đời…”
Lời thơ đẹp, hợp logic và tình tự dân tộc
Chùm
thơ và giai thoại trên đã tồn tại lâu dài trong bia miệng người đời.
Lời thơ đẹp, hợp logic và tình tự dân tộc, mọi việc đều khớp đúng với sự
kiện lịch sử.
Nguyễn Hoàng, chúa khởi nghiệp nhà Nguyễn, có quê
tại huyện Tống Sơn (nay là huyện Hà Trung). Nhà thờ họ Nguyễn hiện ở
đình Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Ông Nguyễn
Hoàng là con thứ hai của ông Nguyễn Kim (tức Hữu vệ Điện tiền Tướng quân
An Thanh hầu Nguyễn Hoằng Kim) cháu của ông Nguyễn Hoằng Dụ, chắt của
ông Nguyễn Văn Lang, đều là các trọng thần của nhà Lê. Nguyên khi xưa
ông Nguyễn Kim khởi nghĩa giúp nhà Lê đánh nhà Mạc đã lấy được đất Thanh
Nghệ nhưng khi thừa thắng đem quân ra đánh Sơn Nam thì bị hàng tướng
nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc chết, binh quyền giao lại cho
con rể Trịnh Kiểm. Người anh của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Uông bị Trịnh
Kiểm kiếm chuyện giết đi vì sợ đức độ và tài năng của hai anh em nhà vợ
đoạt mất quyền mình. Nguyễn Hoàng sợ Trịnh Kiểm ám hại nên đã hỏi kế của
Nguyễn Bỉnh Khiêm và được Trạng Trình bảo rằng “Hoành Sơn nhất đái, vạn
đại dung thân”. Ông đã xin vào trấn thủ Thuận Hóa từ năm 1558.
Đào
Duy Từ sinh năm 1572 ở làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tỉnh Gia,
tỉnh Thanh Hóa. Năm ông ra đời thì Trịnh Kiểm vừa mới mất (1570) trao
quyền lại cho Trịnh Cối để lo việc đánh dẹp. Trịnh Cối say đắm tửu sắc,
tướng sĩ nhiều người không phục. Trịnh Tùng, con thứ của Trịnh Kiểm, đã
rước vua Lê về đồn Vạn Lại và công khai chống lại anh ruột, Nhân lúc anh
em họ Trịnh đánh nhau, Mạc Kính Điển cùng với các danh tướng Nguyễn
Quyện, Mạc Ngọc Liễn đem 10 vạn quân vào đánh Thanh Hóa. Trịnh Cối liệu
thế không địch nổi đã đầu hàng Mạc. Trình Tùng đưa vua về Đông Sơn,
phòng ngự chắc chắn, liều chết cố thủ. Mâc Kính Điển đánh mãi không
được, lâu ngày hết lương, phải rút quân về. Trình Tùng oai quyền vượt
vua, Anh Tông lo ngại tìm cách giết Trịnh Tùng. Mưu việc không thành,
vua sợ chạy vào Nghệ An, bị Trịnh Tùng lập vua mới Thế Tông Lê Duy Đàm
bảy tuổi lên làm vua và cho người truy sát giết chết vua cũ. Suốt 10 năm
1573-1583 Trịnh Tùng cố thủ vững chắc Thanh Hóa. Sau khi Mạc Kính Điển
mất (1579) thế lực hai bên thay đổi. Năm 1591, Trịnh Tùng cử đại binh
đánh ra Thăng Long, bắt được Nguyễn Quyện, phá hào lũy và rút về Thanh
Hóa. Vua Mạc Mậu Hợp say đắm vợ người, bạc đãi tướng sĩ, làm nát cơ
nghiệp nhà Mạc. Tướng nhà Mạc là Văn Khuê về hàng nhà Lê. Trịnh Tùng đem
đại binh trở lại Thăng Long, đánh tan quân Mạc, giết Mạc Mậu Hợp. Nhà
Mạc mất ngôi. Con cháu nhà Mạc giữ đất Cao Bằng được ba đời nữa. Vua Lê
chỉ còn trên danh nghĩa được cấp bổng lộc thượng tiến, thu thuế 1000 xã
và 5000 lính túc vệ và chỉ thiết triều tiếp sứ. Mọi việc lớn nhỏ đều do
chúa Trịnh điều hành. Họ Trịnh tôn Lê vì sợ nhà Minh sinh sự lôi thôi và
sợ những kẻ chống đối lấy cớ phù Lê, hơn nữa họ Nguyễn có thế lực mạnh
và họ Mạc còn đang giữ đất Cao Bằng .
Năm 1572, nhân lúc anh em
Trịnh Cối, Trịnh Tùng đánh nhau, nhà Mạc đem quân đánh Thanh Hóa và cho
một cánh thủy quân do tướng Lập Bạo chỉ huy đánh Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng
đã cho gái đẹp Ngô thị giả cách đưa vàng bạc đến cầu hòa, dụ Lập Bạo ra
ái ân trên bãi biển vắng. Lập Bạo không đề phòng nên bị quân Nguyễn
trong cát nổi lên giết chết. Quân Mạc bị đánh tan.
Nguyễn Hoàng từ
năm 1592 đến năm 1600, đã kéo quân ra Bắc giúp Trịnh diệt Mạc và lập
được nhiều công to nhưng Trịnh Tùng luôn để ý đề phòng và Nguyễn Hoàng
đã không thể có cớ gì để trở lại đất cũ. Năm 1600 nhân dịp đi đánh giặc,
Nguyễn Hoàng đã theo đường biển về lại Thuận Hóa. Sợ họ Trịnh nghi ngờ,
ông đã gả con gái Ngọc Tú cho Trịnh Tráng là con trai thứ của Trịnh
Tùng.
Năm 1613, Nguyễn Hoàng sắp mất, gọi người con thứ 6 là Nguyễn Phúc
Nguyên vào dặn rằng: “
Đất Thuận, Quảng này, bên bắc thì có núi
Hoành Sơn, sông Linh Giang, bên nam có Hải Vân và núi Bì Sơn, thật là
một nơi trời để cho người anh hùng dụng võ. Vậy ta phải thương yêu nhân
dân, luyện tập quân sĩ để mà gây dựng cơ nghiệp về muôn đời”
Sãi
Vương Nguyễn Phúc Nguyên nối nghiệp cha giữ đất phương Nam, theo đúng
lời di huấn của cha “thương yêu nhân dân, luyện tập quân sĩ”, bên ngoài
kính cẩn nhận chức do vua Lê phong cho, giữ hòa hiếu với anh rể Trịnh
Tráng, nhưng bên trong đã ngầm súc tích nội lực, tỉnh táo đối phó với
mưu mô giảo hoạt tìm mọi cách thôn tính, khống chế của họ Trịnh.
Đào
Duy Từ với tầm nhìn xa rộng và nhãn quan chính trị sâu sắc đã nhận ra
tình cảnh trớ trêu trên. Hình thái Lê Trịnh, Mạc, Nguyễn thời ấy thật
giống như “Tam Quốc”: Họ Trịnh noi cách Tào Tháo mượn uy thiên tử để sai
khiến chư hầu. Họ Mạc tuy sức cùng lực kiệt nhưng được nhà Minh hậu
thuẫn Nhà Minh luôn rình đợi thời cơ để can thiệp vào nước ta như cách
“giúp Trần, cầm Hồ” của triều trước. Họ Nguyễn giữ đất phương Nam chân
chúa lô rõ, hiền tài theo về. Đào Duy Từ như Ngọa Long ở Long Trung ẩn
nhẫn đợi thời. Ông chỉ quyết định vào Nam khi đã định rõ minh quân, danh
tướng, chiến lược, sách lược các đối sách trước mắt và lâu dài của bàn
cờ lớn.
Lịch sử ghi nhận Đào Duy Từ tham gia chính trường khoảng tám
năm (1627 -1634). Như vậy, ông đã rời quê hương Thanh Hóa vào Đàng
Trong lập nghiệp trước năm 1625 trước khi ông 53 tuổi . Người vợ cả họ
Cao có với ông ít nhất một người con gái, vì ngay sau khi tham chính ông
đã có con gái gả cho tướng quân Nguyễn Hữu Tiến.
Nhà thờ và lăng mộ Đào
Tá Hán hiện tại thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây . Nhà thờ ông bà Đào
Duy Từ ở thôn Cự Tài xã Hoài Phú có lẽ là nơi ở của bà vợ cả họ Cao khi
Đào Duy Từ ởThanh Hóa vào Bình Định. Nhà thờ chính của ông bà Đào Duy
Từ ở thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo có lẽ là nơi ở của bà vợ kế Trần Thị
Chính, con gái của khám lý Trần Văn Hòa.
Đào Duy Từ là người tinh
thông sử sách, có tài văn võ nhưng không được đi thi dưới triều Lê Trung
Hưng vì là con nhà ca xướng. Bố của ông là Đào Tá Hán, trước làm lính
cấm vệ trong triều Lê Trịnh, bị phạm húy khi làm thơ đã dám nói tên của
chúa Trịnh Kiểm nên bị phạt đánh đòn và đuổi về nhà làm dân thường. Bố
của ông sau trở thành kép hát nổi tiếng khắp vùng đã kết duyên với bà Vũ
Thị Kim Chi ở làng Ngọc Lâm. Đào Duy Từ được sinh ra ở làng Hoa Trai,
khi ông lên năm thì bố bị bệnh mất, người mẹ ở góa, tần tảo nuôi con ăn
học. Theo luật lệ của triều đình bấy giờ thì con cái những người làm
nghề ca xướng đều không được quyền thi cử. Bà Kim Chi tiếc cho tài học
của con nên đã nhờ viên xã trưởng đổi họ Đào của con theo cha thành họ
Vũ theo mẹ. Đào Duy Từ đã đỗ á nguyên tại kỳ thi Hương năm 1593 lúc ông
21 tuổi, vào đời vua Lê Thế Tông (l567-1584). Ông dự thi Hội thì bị viên
xã trưởng mật báo và tố giác vì mẹ ông đã không chịu gian díu với hắn.
Ông bị cấm thi vì trọng tội “gian lận trong thi cử”, bị giam giữ xét
hỏi, trong khi mẹ ông ở nhà đã phẫn uất tự tử. Đào Duy Từ vào Nam sau
hơn ba mươi năm trầm tĩnh đợi thời. Hiện vẫn chưa đủ tư liệu về thời
gian này Đào Duy Từ làm gì ở đâu. Khoảng thời gian này gấp đôi 15 năm
phiêu bạt của Nguyễn Du còn là một câu hỏi lớn.
Ứng xử của Đào Duy
Từ tương tự như Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhẫn nại đợi hai mươi năm mới ra
dự thi triều Mạc và lập tức đoạt được Trạng nguyên. Đào Duy Từ cũng chọn
hướng vào Nam rất sâu sắc, có tính toán và đúng thời cơ. Đây không phải
là một sự uất ức tầm thường mà là sự nhẫn nại của bậc trí giả, thời
thế nhiễu loạn, vàng lầm trong cát đấy thôi.
Giai thoại lung linh huyền ảo chinh phục lòng người
Giai
thoại dân gian kể rằng, chính trong thời gian Đào Duy Từ gặp cảnh ngộ
éo le phạm quy tại trường thi thì chúa Nguyễn Hoàng đang viếng thăm phần
mộ của cha ông xây cất ở vùng Tống Sơn. Nguyễn Hoàng đã đến thăm Thái
phó Nguyễn Hữu Liêu và tình cờ nghe được chuyện kể về tài năng cùng số
phận hẩm hiu của người học trò nghèo Đào Duy Từ. Chúa đem lòng ái mộ cảm
mến, nên đã tìm gặp và ngầm giúp Từ tiền bạc để sinh sống. Khi Nguyễn
Hoàng đến thăm Đào Duy Từ. Chúa chợt thấy trên vách buồng Duy Từ đang ở
có treo bức tranh cầu hiền vẽ ba anh em Lưu Bị thời Tam Quốc bên Tàu lặn
lội tìm đến đất Long Trung để vời đón Gia Cát Lượng là một bậc hiền
tài.
Nguyễn Hoàng bèn chỉ lên bức tranh, tức cảnh đọc mấy câu thơ để tỏ lòng cầu hiền của chúa và cũng để dò xét tâm ý Đào Duy Từ:
Vó ngựa sườn non đá chập chùng
Cầu hiền lặn lội biết bao công
Duy Từ bèn đọc tiếp:
Đem câu phò Hán ra dò ý
Lấy nghĩa tôn Lưu để ướm lòng
…
Nguyễn Hoàng nối thêm:
Lãnh thổ đoạn chia ba xứ sở
Biên thùy vạch sẵn một dòng sông
và Duy Từ kết
Ví như chẳng có lời Nguyên Trực
Thì biết đâu mà đón Ngọa Long
Sau
này, khi Nguyễn Hoàng đã mất, Đào Duy Từ vào Nam,. Ông chăn trâu thuê
cho một nhà giàu ở Bình Định. Chủ nhà là người ham mê văn học, đã phát
hiện ra Đào Duy Từ là người có tài, nên đã tiến cử Đào Duy Từ cho quan
Khám lý Trần Đức Hòa. Vì mến tài của Đào Duy Từ, Trần Đức Hòa đã gả con
gái cho, đồng thời tiến cử Đào Duy Từ cho Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên.
Sau cuộc gặp gỡ với Đào Duy Từ, Chúa Sãi đã phong cho ông làm Nha uý Nội
tán.
Đánh giá công lao, sự nghiệp của Đào Duy Từ
Nhà
Nguyễn tôn vinh Đào Duy Từ là bận khai quốc công thần hàng đầu và được
thờ trong thái miếu. Đào Duy Từ được Chúa Nguyễn trọng dụng, đã hết lòng
giúp chúa Nguyễn đạt được những kỳ tích trong lịch sử. Công nghiệp của
Đào Công truyền tụng muôn đời được tóm tắt ở năm điểm chính sau:
1)
Giữ vững cơ nghiệp của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chống cự thành công
với họ Trịnh ở phía Bắc. Ông đã cùng các danh tướng Nguyễn Hữu Dật,
Nguyễn Hữu Tiến bày mưu định kế, luyện tập quân sĩ, xây đồn đắp lũy, tổ
chức tuyến phòng ngự chiều sâu từ phía nam sông Linh Giang đến Lũy
Trường Dục (ở huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình) và Lũy Thầy (từ cửa sông
Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình). Suốt thời Trịnh
Nguyễn phân tranh kéo dài suốt 45 năm (1627- 1672) đánh nhau cả thảy bảy
lần, họ Trịnh thường mạnh hơn nhưng quân Nam tướng sĩ hết lòng, đồn lũy
chắc chắn nên đã chống cự rất hiệu quả với quân Trịnh.
2) Mở đất phương Nam làm cho Nam Việt thời ấy trở nên phồn thịnh, nước lớn lên, người nhiều ra.
3)
Đặt nền móng vững chắc cho triều Nguyễn, sửa sang chính trị, quan chế,
thi cử, võ bị, thuế khóa, nội trị, ngoại giao. Với tài năng tổ chức kiệt
xuất của Đào Duy Từ, chỉ trong thời gian ngắn ngủi chín năm
(1625-1634), ông đã kịp xây dựng được một định chế chính trị rất được
lòng dân. Do vậy, sau đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên còn truyền thêm được
bảy đời nữa .
4) Những di sản của Đào Duy Từ để lại đều là những
kiệt tác: Binh thư “Hổ trướng khu cơ” sâu sắc, thực tiễn, mưu lược yếu
đánh mạnh, ít địch nhiều, là một trong hai bộ sách quân sự cổ quý nhất
của Việt Nam (bộ kia là Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo) ; Nhã nhạc
cung đình Huế, vũ khúc, tuồng cổ Sơn Hậu gắn với di sản văn hóa Huế
thành di sản văn hóa thế giới; Những giai thoại, ca dao truyền đời trong
tâm thức dân tộc của lòng dân mến người có nhân. Tác phẩm “Hổ
trướng khu cơ”; Nhã nhạc cung đình Huế, vũ khúc tuồng Sơn Hậu là những
kiệt tác và di sản văn hóa vô giá vùng với giai thoại, ca dao, thơ văn
truyền đời trong tâm thức dân tộc.
5) Đào Duy Từ mãi mãi là người
Thầy đức độ, tài năng, bậc kỳ tài muôn thuở của dân tộc Việt, người
khai sinh một dòng họ lớn với nhiều hiền tài và di sản còn mãi với non
sông.
Tài liệu tham khảo chính
Trần
Trọng Kim 1921 Việt Nam sử lược, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin 1999;
Nguyễn Khắc Thuần. Giai thoại dã sử Việt Nam,
Trịnh – Nguyễn diễn chí,
quyển 2;
Trang thông tin điện tử tỉnh Bình Định
http://www.baobinhdinh.com.vn; Trang thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình
http://www.quangbinh.gov.vn ;
Trang thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa
http://www.thanhhoa.gov.vn
Nguồn: Đào Duy Từ (chuyên luận Hoàng Kim) có bổ sung và hiệu đính, chỉnh sửa
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con