Chủ Nhật, 6 tháng 6, 2010

Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ


Hoàng Kim

ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM. Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ nơi “bia tàn chữ mất vùi gai góc/ nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe” càng cho thấy nhân cách kẻ sĩ và sự cảm thông của ông đối với Liễu Hạ Huê sâu sắc đến dường nào. Người hiền thực ra đời nào cũng có, thời thế nhiễu loạn, chẳng qua vàng lầm trong cát đấy thôi. Nguyễn Du là con quan tướng quốc Nguyễn Nhiễm cựu thần nhà Lê và mẹ ông là người phụ nữ tài sắc, vợ lẽ nhà quan, gặp lúc thế nước động loạn, chúa Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều có ý riêng. Ông lớn lên trong cảnh lận đận không nhà, có tài mà không thể cậy. Ông là một đại sĩ phu tài năng trác tuyệt nhưng chỉ làm một viên quan thường triều Nguyễn mà vua vừa dùng, vừa tìm cách kiềm chế như đối với Nguyễn Công Trứ, Phan Huy Chú. Ông vì giỏi nên được vua Nguyễn cử đi sứ Tàu mà thôi. Thơ Nguyễn Du vì vậy kín đáo và sâu sắc hiếm thấy(Ảnh: Mộ Nguyễn Du ở Hà Tĩnh).
                                                                           *         
Để thấu hiểu những giá trị nhân văn đích thực, rất cần những khoảng lặng để đối diện với chính mình.  Hôm trước tôi đã có dịp cùng với những người bạn quý thảo luận về hành vi ứng xử của Liễu Hạ Huệ gần gũi với một người nữ mà ông không mang tiếng dâm tà. Nhờ việc tra cứu, đọc đi đọc lại nhiều lần bài thơ ‘Liễu Hạ Huệ mộ’ của cụ Nguyễn Du, tôi chợt sững người, nhận thức thêm được những nỗi niềm, của cụ Nguyễn lấp lánh sau những con chữ ...


柳下惠墓

吳店橋通泗水波
士師名蹟未消磨
事人直道寧三黜
作聖全功在一和
相對尼山長有魯
可憐盜跖已無家
碑殘字沒埋荒草
天古聞風一下車

Liễu Hạ Huệ mộ

Ngô Điếm kiều thông Tứ thủy ba
Sĩ Sư danh tích vị tiêu ma
Sự nhân trực đạo ninh tam truất
Tác thánh toàn công tại nhất hòa
Tương đối Ni Sơn trường hữu Lỗ
Khả liên Đạo Chích dĩ vô gia
Bi tàn tự một mai hoang thảo
Thiên cổ văn phong nhất há xa

Mộ Liễu Hạ Huệ (Dịch nghĩa)

Dưới cầu Ngô Điếm sông Tứ chảy
Tiếng tăm của bậc Sĩ sư vẫn chưa mất
Lấy đạo ngay thẳng thờ người, ba lần chịu mất chức
Nên công bậc thánh ở chữ "Hòa"
Đối mặt Ni Sơn, nước Lỗ còn mãi mãi
Thương cho Đạo Chích kẻ không nhà
Bia tàn chữ mất chôn vùi nơi cỏ hoang
Nghìn năm còn nghe tiếng, tôi xuống xe

(Dịch thơ: Đặng Thế Kiệt)

Sông Tứ dưới cầu Ngô Điếm qua
Danh thơm kẻ sĩ chửa phôi pha
Đạo ngay xử thế ba lần truất
Bậc thánh nên công một đức Hòa
Đối mặt Ni Sơn vinh nước tổ
Thương thân Đạo Chích hổ danh nhà
Bia tàn chữ mất vùi gai góc
Nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe

Muốn hiểu sâu được bài thơ trên, chúng ta cần đối chiếu cuộc đời và sự nghiệp của cụ Nguyễn với thân thế và hoàn cảnh của Liễu Hạ Huệ, nắm vững những địa danh và điển cố văn chương trong bài thơ. Bởi lẽ nếu không hiểu họ là ai, họ có những nét tương đồng nào thì không thể cắt nghĩa được vì sao cụ Nguyễn Du lại đồng cảm và kính trọng Liễu Hạ Huệ sâu sắc như thế “bia tàn chữ mất vùi gai góc/ nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe”.


NGUYỄN DU CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP

Từ điển Bách khoa mở Wikipedia đã tóm tắt về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Du như sau: “Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; 1766–1820), tên tự Tố Như (素如), hiệu Thanh Hiên (清軒), biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ (鴻山獵戶), là một nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Tác phẩm lớn nhất của ông là tập Truyện Kiều dài 3.254 câu, một tập truyện thơ nôm viết theo thể lục bát với ý nghĩa thăng trầm, từ ngữ giai điệu phong phú mà hầu hết người Việt Nam đều biết tới. Ngoài ra, những tập Bắc hành tạp lục, Thanh hiên thi tập, Văn tế thập loại chúng sinh của ông cũng rất nổi tiếng. Ông được xem như là một nhà thơ lớn nhất Việt Nam từ trước đến nay, người Việt kính trọng gọi ông là "Đại thi hào dân tộc". Năm 1965, ông được UNESCO tôn vinh là danh nhân văn hóa thế giới.

Ông sinh ngày 03 tháng 01 năm 1766 tức ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh), nhưng sinh ra ở quê mẹ- làng Kim Thiều, xã Hương Mặc, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh [1] và trải qua thời thơ ấu ở Thăng Long. Ông thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt: cha là Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm làm tới tể tướng dưới triều Lê; mẹ là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, người xứ Kinh Bắc (Nguyễn Nghiễm có 8 vợ, 21 người con). Anh khác mẹ (con bà chính) của ông là Toản Quận Công Nguyễn Khản làm tới Tham Tụng, Thái Bảo trong triều. Do là con thứ bảy nên Nguyễn Du còn được gọi là cậu Chiêu Bảy. Năm 1771, ông cùng gia đình Tể tướng Nguyễn Nghiễm chuyển về ở làng Tiên Điền. Năm 1775, lúc 10 tuổi Nguyễn Du mồ côi cha. Năm 1778, lúc mười ba tuổi mồ côi mẹ, ông phải ra Thăng Long ở với anh cả là Nguyễn Khản. Năm 1780, Nguyễn Du trở về làng Tiên Điền ở với người chú là Tiến sĩ Nguyễn Hành. Năm 1783, Nguyễn Du thi hương tại trường thi Nghệ An và đậu Tam trường. Vì lẽ gì không rõ, ông không tiếp tục thi lên nữa, mà đi nhận một chức quan võ ở Thái Nguyên, kế chân người cha nuôi của ông vừa mới từ trần. Năm 1789, Nguyễn Huệ kéo binh ra Bắc, đại thắng quân nhà Thanh. Nguyễn Du, vì tư tưởng trung quân phong kiến, không chịu ra làm quan cho nhà Tây Sơn. Từ năm 1789 đến năm 1795, ông sống ở Thái Bình- quê vợ. Năm 1796: Nguyễn Du dự định vào Gia Định cộng tác với Chúa Nguyễn, âm mưu bị bại lộ, bị nhà Tây Sơn bắt giam ba tháng. Từ 1797 đến năm 1802: Nguyễn Du ẩn dật tại Tiên Điền. Khi Nguyễn Phúc Ánh lật đổ nhà Tây Sơn Nguyễn Quang Toản, rồi mời Nguyễn Du ra làm quan; ông từ mãi mà không được nên miễn cưỡng tuân mệnh. Năm Gia Long nguyên niên (1802),ông làm tri huyện huyện Phù Dực (nay thuộc Tỉnh Thái Bình), rồi được ít lâu thăng tri phủ Thường Tín (Hà Đông). Năm 1805, ông được thăng Đông Các điện đại học sĩ, tước Du Đức Hầu. Năm 1809, ông làm cai bạ tỉnh Quảng Bình. Năm 1813, thăng Cần Chánh điện đại học sĩ, được cử làm Chánh Sứ đi Trung Quốc. Sau khi về nước, năm 1815, ông được thăng Lễ Bộ Hữu Tham Tri. Theo Đại Nam Liệt Truyện: "Nguyễn Du là người ngạo nghễ, tự phụ, song bề ngoài tỏ vẻ giữ gìn, cung kính, mỗi lần vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như không biết nói năng gì..." Năm 1820, Minh Mạng lên ngôi, cử ông đi sứ lần nữa, nhưng lần này chưa kịp đi thì ông đột ngột qua đời. Đại Nam Liệt Truyện viết: "Đến khi đau nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi. Ông nói "được" rồi mất; không trối lại điều gì.

"Tác phẩm tiêu biểu của ông, ngoài kiệt tác Truyện Kiều nổi tiếng “mà hầu như người Việt Nam nào cũng nhớ cũng thuộc một đôi câu”, Nguyễn Du còn để lại Văn tế thập loại chúng sinh, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; Thác lời trai Phường Nón (bằng chữ Nôm) Ba tập thơ chữ Hán điển hình là Thanh Hiên thi tập (viết khi làm quan dưới triều Nguyễn), Nam Trung tạp ngâm (viết khi làm quan ở Quảng Bình) Bắc hành tạp lục (viết khi đi sứ Trung Quốc). Một số bài thơ khác: Cảm Hứng Trong Tù, Đầu Sông Chơi Dạo, Đứng Trên Cầu Hoàng Mai Buổi Chiều, Đêm Đậu Thuyền Cửa Sông Tam Giang, Đêm Rằm Tháng Giêng Ở Quỳnh Côi, Lưu Biệt Anh Nguyễn, Mộ Đỗ Thiếu Lăng Ở Lôi Dương, Miếu Thờ Mã Phục Ba Ở Giáp Thành, Ngày Thu Gởi Hứng, Nói Hàn Tín Luyện Quân, Người Hát Rong Phủ Vĩnh Bình, Ngồi Một Mình Trong Thủy Các, Ngựa Bỏ Bên Thành, Ngày Xuân Chợt Hứng, Long Thành Cẩm Giả Ca, Tranh Biệt Cùng Giả Nghị, Qua Sông Hoài Nhớ Thừa Tướng Văn, Xúc Cảm Đình Ven Sông, Viếng Người Con Hát Thành La …”

LIỄU HẠ HUỆ: THÂN THẾ VÀ HOÀN CẢNH

Thi Viện của Đào Trung Kiên và Từ điển Wikipedia chép :Liễu Hạ Huệ (sinh 720 TCN, mất 621 TCN) tức Triển Cầm 展禽, tên Hoạch 獲, tự là Quý 季, người đất Liễu Hạ 柳下, nước Lỗ 魯, thời Xuân Thu 春秋, nổi tiếng là một chính nhân quân tử. Liễu Hạ Huệ làm Sĩ Sư, ba lần bị truất mà không bỏ nước. Có người hỏi, ông trả lời: "Lấy đạo ngay mà thờ người thì đi đâu mà không bị ba lần truất. Nếu lấy đạo cong thì hà tất phải bỏ nước của cha mẹ". Sau khi chết, được đặt tên thụy là Huệ 惠. Mạnh Tử khen ông là bậc thánh về Hòa (Thánh chi Hòa 聖之和).

Sách Đông Chu liệt quốc của Phùng Mộng Long , hồi thứ ba mươi chín “Triễn Hỉ vấn kế cùng Liễu Hạ Huệ” tóm tắt như sau:

“Trong lúc này, Tề Hiến Công vẫn có ý nối chí cha, nuôi mộng bá chủ chư hầu. Một hôm hỏi các quan đại phu: Tiên quân ta là Tề Hoàn Công lúc nào cũng lo đánh đông dẹp bắc, gây thế lực cho mình, chư hầu kính nể. Nay đến đời ta, chẳng lẽ cứ nằm im, trong khi các chư hầu mỗi ngày một mạnh? Ta còn nhớ năm trước vua Lỗ định giúp Vô Khuy chống cự với ta, hận ấy chưa trả. Nay Lỗ lại liên kết với Vệ và Sở, thế rất mạnh, nếu không trừ trước ắt sanh hậu họa. Vừa rồi , ta nghe nói nước Lỗ mất mùa, ta muốn thừa cơ đánh Lỗ, ý các ngươi thế nào? Quan thượng khanh Cao Lỗ nói: Nước Lỗ được nhiều nước giúp, ta đánh khó thắng nổi. Tề Hiến Công nói: Nếu ngồi nhà mà luận chưa chắc đã đúng. Cứ đem quân đến đánh thử một trận xem các nước chư hầu có ai giúp Lỗ chăng? Nói xong, cử binh kéo sang miền bắc nước Lỗ.

Quân thám thính về báo, Lỗ Hi Công nói: Nước ta đang lúc mất mùa, quân Tề lại kéo sang, vậy thì nên đánh hay hòa? Quan đại thần Tang Tôn Thần nói: Xin chúa công nhẫn nhục cho người đến giảng hòa với Tề, nếu không xong sẽ tính. Lỗ Hi Công hỏi: Hiện nay ai có thể lãnh trọng trách đó? Tang Tôn Thần nói: Tôi xin tiến cử Triển Hoạch, con quan Tư Không đời trước, làm quan Sĩ Sư, được phong ở đất Liễu Hạ. Người ấy nho nhã, thông minh lắm, chỉ vì chán ghét thói đời nên từ quan về sống cảnh an cư. Nay được người ấy đi chắc vua Tề phải kính trọng. Lỗ Hi Công nói: Tôi vẫn nghe tiếng người ấy, song hiện nay người ấy ở đâu? Tang Tôn Thần nói: Hiện nay nơi Liễu Hạ. Lỗ Hi Công liền cho người đến triệu Triển Hoạch, Triển Hoạch cáo bệnh không đến. Lỗ Hi Công hỏi Triển Hoạch cáo bệnh, bây giờ phải làm sao? Tang Tôn Thần nói: Triễn Hoạch còn có người em là Triển Hỉ dẫu quan chức nhỏ nhưng có tài ứng đối rất hay. Nay sai Triển Hỉ đến nhà Triển Hoạch hỏi xem dùng cách gì để ứng đối với vua Tề.

Lỗ Hi Công theo lời, sai Triển Hỉ đến Liễu Hạ. Triển Hỉ theo lệnh đến nơi vào yết kiến Triển Hoạch, thuật lại ý muốn của Lỗ Hi Công và sứ mệnh của mình. Triển Hoạch nói: Vua Tề sang đánh ta là ý muốn noi công nghiệp của Tề Hoàn Công ngày trước, nhưng không biết muốn làm bá chủ phải tôn phù Thiên tử nhà Chu. Nay ta đem di mệnh của Tiên vương ngày xưa mà trách vua Tề thì thiếu gì cách nói. Triển Hỉ trở về nói với Lỗ Hi Công: Tôi đã hỏi được cách ứng đối với vua Tề rồi.

Lỗ Hi Công liền phát lễ vật sai Triển Hỉ đến thương thuyết với vua Tề (…). Triển Hỉ nói với vua Tề: Chúa công tôi nghe xa giá nhà vua sang địa giới nước tôi nên sai tôi đến đây để tiến dâng lễ vật. Tề Hiến Công hỏi: Người Lỗ nghe ta đem quân sang đánh có sợ chăng? Triển Hỉ đáp: Có những bọn tiểu nhân thì sợ thật nhưng những người quân tử thì không chút gì sợ hãi. Tề Hiến Công nói: Hiện nay nước ngươi không có ai mưu trí như Thi Bá, cũng không có ai vũ dũng bằng Tào Tuệ, ngoài đồng lại bị mất mùa, cây cỏ vàng úa . Thế thì cậy vào đâu mà không sợ hãi? Triển Hỉ nói: Nước tôi không cậy tài cũng không cậy của, chỉ cậy có một điều là di mệnh của Tiên vương mà thôi. Tiên vương nhà Chu ta ngày xưa phong Thái công nơi đất Tề, phong Bá nơi nước Lỗ, khiến hai nước uống huyết ăn thề: “Con cháu sau này đời đời cùng giúp nhà Chu, không làm hại lẫn nhau”. Lời thề ấy còn chép trong sử sách hai nước. Trước kia Tề Hoàn Công lên làm bá chủ cũng vì hội chư hầu nơi đất Kha để giúp Thiên tử, nay hiền hầu bỏ đường lối ấy mà dùng vũ lực uy hiếp các nước chư hầu, trái với lời thề của Tiên vương, làm sao nên được? Tôi dám chắc hiền hầu không bao giờ làm trái đạo. Bởi vậy, nước tôi không sợ hãi. Tề. Hiến Công nghe nói nghĩ thầm, rồi bảo Triển Hỉ: Ngươi về nói lại với Lỗ hầu, ta xin cùng nước Lỗ giảng hòa. Nói xong truyền lui binh về nước

"BẮC HÀNH TẠP LỤC" VÀ "LIỄU HẠ HUỆ MỘ"

Thơ chữ Hán của Nguyễn Du có Bắc hành tạp lục, Nam trung tạp ngâm và Thanh Hiên thi tập. Thi Viện http://www.thivien.net/ đến nay đã thu thập được 226 bài trong đó “Bắc hành tạp lục” có 132 bài, Nam Trung tạp ngâm 16 bài và Thanh Hiên thi tập 78 bài. Lời thơ điêu luyện, theo cách nói của Mai Quốc Liên thì: "Thơ chữ Hán của Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa".

“Liễu Hạ Huệ mộ” là một tuyệt phẩm của Nguyễn Du trong “Bắc hành tạp lục”. Năm Gia Long thứ mười một 1813, Nguyễn Du được thăng chức Cần Chánh điện đại học sĩ và được cử làm Chánh Sứ đi Trung Quốc từ khoảng giữa năm 1813 đến gần cuối năm 1814. Trên hành trình muôn dặm của một sứ thần, Nguyễn Du đã đến nước Lỗ (tỉnh Sơn Đông ngày nay) nơi có ngọn núi Thái Sơn hùng vĩ, đất thiêng khởi phát của nhà Chu và tộc Hán, nơi quê hương và an nghỉ của Khổng Tử (Trọng Ni) với lời cảm khái của Tư Mã Thiên “ Kinh Thi nói: Núi cao ta trông , đường rộng ta đi, Tuy đích chưa đến nhưng lòng hướng về̀. Tôi đọc sách của họ Khổng, tưởng tượng như thấy người. Đến khi đến Lỗ, xem nhà thờ Trọng Ni, nào xe cộ, nào áo, nào đồ tế lễ, học trò tập về nghi lễ ở nhà Khổng tử theo đúng từng mùa, tôi bồi hồi nán lại, bỏ đi không dứt. Trong thiên hạ các vua chúa và người tài giỏi rất nhiều, khi sống thì vinh hiển, nhưng lúc chết là hết. Khổng Tử là một người áo vải thế mà truyền hơn mười đời, các học giả đều tôn làm thầy, từ thiên tử đến vương hầu ở Trung Quốc hễ nói đến lục nghệ đều lấy Khổng Tử làm tiêu chuẩn. Có thể gọi là bậc chí Thánh vậy!”.

Nguyễn Du tìm đến viếng mộ Liễu Hạ Huệ, người Sĩ Sư ba lần bị biếm chức. Liễu Hạ Huệ có người em trai là kẻ trộm (Đạo Chích) với bia miệng người đời “chó nhà Đạo Chích sủa vua Nghiêu”. Ông cũng có người em trai là Triển Hỷ “chỉ làm một chức quan nhỏ”. Việc Vua Lỗ triệu kiến ông đi làm sứ thần, ông đã cáo ốm không đến nhưng kế sách châu ngọc của ông qua sự vấn kế của Triển Hỷ thì đã tránh cho dân chúng được cái thảm họa chiến tranh. Nguyễn Du đến thăm mộ Liễu Hạ Huệ nơi “bia tàn chữ mất vùi gai góc/ nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe” càng cho thấy nhân cách kẻ sĩ và sự cảm thông của ông đối với Liễu Hạ Huê sâu sắc đến dường nào.

Những người hiền xưa nay thực ra đời nào cũng có, thời thế nhiễu loạn, chẳng qua vàng lầm trong cát đấy thôi. Nguyễn Du là con quan tướng quốc Nguyễn Nhiễm cựu thần nhà Lê và mẹ ông là người phụ nữ tài sắc, vợ lẽ nhà quan, gặp lúc thế nước động loạn, chúa Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều có ý riêng. Ông lớn lên trong cảnh lận đận không nhà, có tài mà không thể cậy. Ông là một đại sĩ phu tài năng trác tuyệt nhưng chỉ làm một viên quan thường triều Nguyễn mà vua vừa dùng vừa tìm cách kiềm chế như đối với Nguyễn Công Trứ, Phan Huy Chú. Ông vì giỏi nên được vua Nguyễn cử đi sứ Tàu mà thôi. Thơ Nguyễn Du vì vậy kín đáo và sâu sắc hiếm thấy.

Bài thơ thật cô đọng, tài tình và tuyệt hay! Cầu Ngô Điểm, sông Tứ, núi Ni, ba lần truất, thánh chi hòa "Đối mặt Ni Sơn, nước Lỗ còn mãi, thương cho Đạo Chích kẻ không nhà" Mỗi câu thơ là những cụm từ chìa khóa với tình ý mênh mang. Viếng mộ Liễu Hạ Huệ, viết Truyện Kiều là Nguyễn Du đã gửi gắm tâm sự và sự trăn trở của người sỉ phu trí thức thời loạn như thân phận nàng Kiều và Liễu Hạ Huệ vậy.

                                                                                  *

Hôm nay, nhân việc các con ở xa về, gia đình tôi đi dâng hương ở Văn miếu Trấn Biên để biết  ơn gương sáng của những người có công với nước. Buổi khuya, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần những ghi chép của Thùy Dương về bình luận của Nguyễn Khắc Phê với tiểu thuyết Nguyễn Du của Nguyễn Thế Quang. Tôi chép lại bài đã đăng cùng các cảm nhận của bạn hữu và bổ sung thêm những tư liệu mới.

Hoàng Kim


BÌNH LUẬN 

Nguyễn Lâm Cúc

NLC đọc lần thứ hai bài viết này, mở mang thêm hiểu biết dù chưa thấu đáo. Xin cảm ơn anh Hoàng Kim. Chúc anh khỏe va hạnh phúc nhiều Hoang…

Hoàng Kim 

Cám ơn Lâm Cúc, Đây là một trong những bài văn mình tâm đắc. Mình cho rằng Nguyễn Du không chỉ là danh nhân văn hóa thế giới, nhà thơ lớn mà còn là một nhân cách lớn với tư duy thiên tài của một Tể tướng đầu triều nước thịnh, chúa sáng, tôi hiền, chẳng qua ông không gặp thời đấy thôi. Viết Truyện Kiều, viếng Khuất Nguyên, viếng Đỗ Phủ, viếng Liễu Hạ Huệ ... là những đồng cảm sâu sắc của ông về thân phận và cảnh ngộ...

Hà Linh 

Chào anh Hoàng Kim. HL đã đọc nhiều lần lời chia buồn và động viên của HK và các anh chị em trên trang HL và hoibloghanoi, các tin nhắn qua điện thoại mà HL vẫn còn lưu. Xin cám ơn tận đáy lòng tất cả mọi người, đã dành cho HL tình cảm thật sâu sắc và chân tình. HL đã xin phép anh Tạo đưa lời cám ơn lên trang chung của Hội blogger Hà Nội.  Xin chúc HK và các anh chị em luôn vui khoẻ, hạnh phúc và mọi điều tốt lành nhất.  HL sẽ cố gắng thu xếp công việc gia đình và cơ quan, để sớm trở lại vui vẻ cùng mọi người.

bulukhin 

Tôi vẫn bảo lưu ý kiến là có nhân vật Liễu Hạ Huệ, bằng chứng là sách Đông Chu để hẳn cả hồi thứ 39 nói về ông với tiêu đề: Triển Hỉ hỏi kế Liễu Hạ Huệ. Ngụy Thù đốt nhà Hỉ Phụ Cơ . Bằng chứng hùng hồn hơn cả đó là Nguyễn Du đã đến viếng mộ ông và có thơ “Liễu Hạ Huệ mộ”. Những nhân vật quân tử Tàu của đất Hoa hạ thiếu gì mà người ta phải bỏ công hư cấu ra nhân vật Liễu Hạ Huệ ? Và có hư cấu thì hà tất phải làm lăng mộ mà sau này Nguyễn Du đến viếng. Trong comment mới nhất ở trang Catu, ông Đông A có vẻ nghe thủng những gì Buluk và Hoàng Kim nói.

Về thơ chữ Hán Nguyễn Du thì nói thật, Buluk tôi chưa đủ hiểu biết mà bàn cho sâu. Chỉ biết đại để là lâu nay khi nói đến Nguyễn Du người ta chỉ nhắc đến Truyện Kiều, chứ ít ai nói đến thơ chữ Hán của ông. Trong quyển Nguyễn Du – về tác giả và tác phẩm của Trịnh Bá Đĩnh biên soạn thì phần viết về Truyện Kiều chiếm 815 trang trong khi phần viết về thơ chữ Hán chỉ có 128 trang. Nếu làm một cuộc thống kê tương tự thì sự cảm thụ của các cây bút uy tín như Hoài Thanh, Xuân Diệu, Nguyễn Lộc …tỷ lệ cũng tương tự. Có sự chênh lệch này bởi Truyện Kiều dễ làm nao lòng trước những gì đau xót gợi thái độ cảm thương, nó coi trọng cái đẹp cảm tính hơn lý tính. Thực ra, Truyện Kiều chỉ là diễn âm, “lỡ tay” mà thành kiệt tác, còn thơ chữ Hán mới đich thị là sáng tác và phải xem nó là phát ngôn viên chính thức của Nguyễn Du. Nói cách khác, nếu ở Truyện Kiều người ta mới thấy tấm lòng và tài năng thì tới thơ chữ Hán người ta mới thấy được cả tầm vóc và bản lĩnh của Nguyễn Du.

Bắc hành thi tập được ông làm chủ yếu vào đợt đi sứ 1813-1814. Đây là lúc ông sống ở xứ người, có dịp rủ bỏ hết nhiễu nhương trong cuộc sống thường nhật của một “hàng thần lơ láo” để nhìn về đất nước. Ông sống với con người và cảnh vật xứ người một cách hết lòng, không chỉ suy nghỉ về hiện tại mà còn thường xuyên trở lại với quá khứ, không chỉ thương xót hoàn cảnh khốn khó của những người dân thường như ông già hát rong ở Thái Bình, hoặc bốn mẹ con một người hành khất, mà còn đặt mình vào tình thế của nhân vật kì vĩ hội tụ những vấn đề lớn của đời sống, như Khuất Nguyên, Kinh Kha, Tô Tần , Nhạc phi, Tần Cối, Liễu Hạ Hạ Huệ…Ông dùng những nhân vật lịch sử Trung Hoa để liên hệ tới hoàn cảnh của mình, trương tự như việc ông dùng cốt truyện mượn từ Thanh Tâm tài nhân để nói xã hội Việt Nam. Những câu thơ hay nhất ở đây dường như đã chạm tới những vấn đề của nhân loại. Học giả Phan Ngọc có nói “Văn Hóa Việt Nam có phần nhẹ chất nhân loại mà nặng chất dân tộc”. Rõ ràng Truyện Kiều và đặc biệt thơ chữ Hán của Nguyễn Du đã góp phần bổ sung cho sự thiếu sót đó.

Hoàng Kim

Tôi rất tán đồng với những ý kiến này của bác Bu: "Nếu ở Truyện Kiều người ta mới thấy tấm lòng và tài năng của Nguyễn Du thì tới thơ chữ Hán người ta mới thấy được cả tầm vóc và bản lĩnh của ông. Bắc hành tạp lục được ông viết chủ yếu vào đợt đi sứ 1813-1814. Đây là lúc ông sống ở xứ người, có dịp rủ bỏ hết nhiễu nhương trong cuộc sống thường nhật của một “hàng thần lơ láo” để nhìn về đất nước. Ông sống với con người và cảnh vật xứ người một cách hết lòng, không chỉ suy nghỉ về hiện tại mà còn thường xuyên trở lại với quá khứ, không chỉ thương xót hoàn cảnh khốn khó của những người dân thường như ông già hát rong ở Thái Bình, hoặc bốn mẹ con một người hành khất, mà còn đặt mình vào tình thế của nhân vật kì vĩ hội tụ những vấn đề lớn của đời sống, như Khuất Nguyên, Kinh Kha, Tô Tần, Nhạc Phi, Liễu Hạ Huệ… Ông dùng những nhân vật lịch sử Trung Hoa để liên hệ tới hoàn cảnh của mình, trương tự như việc ông dùng cốt truyện mượn từ Thanh Tâm tài nhân để nói xã hội Việt Nam. Những câu thơ hay nhất ở đây dường như đã chạm tới những vấn đề của nhân loại. Học giả Phan Ngọc có nói “Văn Hóa Việt Nam có phần nhẹ chất nhân loại mà nặng chất dân tộc”. Rõ ràng Truyện Kiều và đặc biệt thơ chữ Hán của Nguyễn Du đã góp phần bổ sung cho sự thiếu sót đó." Trong việc tìm hiểu di sản văn hóa của ông cha thì "Bắc hành tạp lục" của Nguyễn Du là viên ngọc quý. Vượt lên thời gian, những áng thơ đó thể hiện trình độ uyên bác, hiểu biết ngôn ngữ văn hóa Trung Hoa điêu luyện và nhân cách kẻ sĩ cao quý của ông xứng tầm với Đỗ Phủ, Khuất Nguyên, Tô Đông Pha ... Tôi thực tâm đắc với ý kiến của học giả Mai Quốc Liên "Thơ chữ Hán của Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa". Chạm đến phần thơ chữ Hán của danh nhân văn hóa Nguyễn Du là chúng ta đang chạm đến phần cốt lõi, tinh túy của thơ Người trong di sản văn hóa quý giá của dân tộc. Nhiều học giả Việt Nam thời gian qua tuy đã thu thập, tìm hiểu nhưng vì điều kiện chiến tranh, ngôn ngữ văn hóa, hạn chế thư tịch điển cố văn chương ... nên chưa tìm hiểu hết.

Minh

Sức sống mãnh liệt nhất của văn học dân gian là truyền khẩu. Đó là điều dễ hiểu giải thích vì sao "Truyện Kiều" lại được đánh giá cao như vậy. Nguyễn Du quả thật có rất nhiều tâm trạng khi "miễn cưỡng" làm quan triều Nguyễn. Những bài thơ chữ Hán của ông luôn chứa đựng những nỗi niềm sâu thẳm. Có gì như luyến tiếc về một thời. 昇龍其一, 昇龍其二 (Thăng Long kỳ 1, kỳ 2), 新秋偶興 (Tân thu ngẫu hứng), 秋日寄興 (Thu nhật ký hứng)... Mấy bài cháu đọc đều toát lên cảm giác ấy

Tư liệu và trao đổi (mời đọc và viết ở đây)
http://www.facebook.com/hoangkimvietnam


Em ơi em, can đảm bước chân lên


Nguyễn Khoa Tịnh

Thầy ước mong em
noi gương Quốc Tuấn


Đọc thơ em, tim tôi thắt lại 
Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng 
Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng 
Xót xa vì đời em còn thơ dại 
Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải 
Mới biết cười đã phải sống mồ côi 
Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi 
Như chiếc lá bay về nơi vô định 
“Bụng đói” viết ra thơ em vịnh: 

“Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai 
Có biết lòng ta bấy hỡi ai? 
Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng 
Kể chi no đói, mặc ngày dài” 


Phải! 
Kể chi no đói mặc ngày dài 
Rất tự hào là thơ em sung sức 
Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực 
Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang” 

“Trung dũng ai bằng cái chảo rang 
Lửa to mới biết sáp hay vàng 
Xào nấu chiên kho đều vẹn cả 
Chua cay mặn ngọt giữ an toàn 
Ném tung chẳng vỡ như nồi đất 
Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang 
Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão 
Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”


Phải! 
Lửa to mới biết sáp hay vàng! 
Em hãy là vàng, 
Mặc ai chọn sáp! 
Tôi vui sướng cùng em 
Yêu giấc “Ngủ đồng” 
Hiên ngang khí phách: 

“Sách truyền sướng nhất chức Quận công 
Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng 
Lồng lộng trời hè muôn làn gió 
Đêm thanh sao sang mát thu không 
Nằm ngữa ung dung như khanh tướng 
Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng 
Tinh tú bao quanh hồn thời đại 
Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong” 


Tôi biết chí em khi "Qua đèo Ngang” 
Ung dung xướng họa với người anh hùng 
Đã làm quân thù khiếp sợ: 

“Ta đi qua đèo Ngang 
Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm 
Đỉnh dốc chênh vênh 
Xe mù bụi cuốn 
Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ 
Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ 
Điệp điệp núi cao 
Trùng trùng rừng thẳm. 
Người thấy 
Súng gác trời xanh 
Gió lùa biển lớn 
Nông dân rộn rịp đường vui 
Thanh Quan nàng nhẽ có hay 
Cảnh mới đã thay cảnh cũ. 
Ta hay 
Máu chồng đất đỏ 
Mây cuốn dặm khơi 
Nhân công giọt giọt mồ hôi 
Hưng Đạo thầy ơi có biết 
Người nay nối chí người xưa 

Tới đây 
Nước biếc non xanh 
Biển rộng gió đùa khuấy nước 
Đi nữa 
Đèo sâu vực thẳm 
Núi cao mây giỡn chọc trời 

Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai 
Thương dân nước, thà sinh phận gái 
“Hoành Sơn cổ lũy” 
Hỏi đâu dấu tích phân tranh? 
Chỉ thấy non sông 
Lốc cuốn, bốn phương sấm động. 

Người vì việc nước ra đi 
Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế 
Điều không hẹn mà xui gặp mặt 
Vô danh lại gặp hữu danh 
Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau 
Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất 
Anh em ta ngự trên xe đạp 
Còn Người thì lại đáp com măng 
Đường xuyên sơn 
Anh hùng gặp anh hùng 
Nhìn sóng biển Đông 
Như ao trời dưới núi. 

Xin kính chào 
Bậc anh hùng tiền bối 
Ta ngưỡng mộ Người 
Và tỏ chí với non sông 
Mẹ hiền ơi! 
Tổ Quốc ơi! 
Xin tiếp bước anh hùng!” 


Hãy cố lên em! 
Noi gương danh nhân mà lập chí 
Ta với em 
Mình hãy kết thành đôi tri kỷ! 
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương 
Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em: 

"Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền 
Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên 
Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ 
Thương dân, yêu nước quyết báo đền 
Văn hay thu phục muôn người Việt 
Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên 
Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn 
Nối chí ông, nay cháu tiến lên!” 


Tôi thương mến em 
Đã chịu khó luyện rèn 
Biết HỌC LÀM NGƯỜI ! 
Học làm con hiếu thảo. 
Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo” 

Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo 
Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương 
Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp 
Giọng líu lo như chim hót ven đường. 

Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu 
Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn 
Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến 
Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!


Tổ Quốc đang chờ em phía trước. 
Em ơi em, can đảm bước chân lên!

1970