NHÀ MẠC ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM.
Hoàng Kim
Nhà Mạc là một triều đại tồn tại chính thức trong lịch sử Việt Nam, kéo dài 150 năm từ lúc xuất hiện cho đến lúc suy vong (1527 – 1677). Mạc triều trong sử Việt. Lịch sử nhà Mạc do nhiều hệ lụy khách quan và chủ quan nên nhiều vấn đề còn tồn nghi chưa sáng tỏ. Khu tưởng niệm vương triều nhà Mạc tại Hải Phòng và tài liệu Mạc tộc là ánh xạ các di sản lịch sử văn hóa của một thời cần bảo tồn, đúc kết bài học phát triển. Nhà thơ Hoàng Gia Cương theo dòng thời gian có hai bài thơ sử thi ân tình và tài hoa “Tìm về nguồn cội” và “Thái tổ Mạc Đăng Dung”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Lung có bài viết "Bản tuyên bố về lịch sử vương triều Mạc" gợi góc nhìn tham chiếu cần đọc lại và suy ngẫm.
MẠC TRIỀU TRONG SỬ VIỆT
Mạc triều là vương triều chính thống trong sử Việt nhưng lâu nay việc đánh giá còn thiên lệch, thiếu khách quan là do nhận thức, ý thức hệ và sự thừa kế sử liệu chưa công bằng. Bài này đúc kết thông tin, nghiên cứu và trao đổi về Mạc triều trong sử Việt.
Triều Mạc, mở đầu từ năm 1527 khi Lê Cung Hoàng ra chiếu nhường ngôi hoàng đế cho Mạc Đăng Dung, kết thúc triều Lê sơ và mở đầu triều Mạc, trãi ba thời kỳ, tổng cộng là 156 năm, trong đó ở Thăng Long 1527-1592 và ở Cao Bằng 1593 -1683. Triều Mạc thay thế triều Lê sơ là một tất yếu lịch sử và đã để lại những dấu ấn nổi bật về tiến bộ xã hội. Triều Mạc ngoài các vị vua danh tiếng Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Doanh còn có những danh nhân lỗi lạc như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giáp Hải, Nguyễn Quyện, Mạc Ngọc Liễn,…
Dưới đây là hai bài thơ vinh danh Triều Mạc trên trang www.MacTrieu.vn
TÌM VỀ CỘI NGUỒN
Hoàng Gia Cương
Tìm về Lũng Động, Cổ Trai
Thắp hương bái lạy bao đời Tổ Tông
Biển gom nước vạn dòng sông
“Thập tam thế hậu…” nhi đồng là đây.
Qua bao giông bão, tháng ngày
Thay tên đổi họ chẳng thay đổi lòng
Vẫn là cha, vẫn là ông
Vẫn dòng máu ấy cuộn trong tim này!
Hoàng, Phan, Lều, Thạch … về đây
Trăm phương như nước như mây tụ nguồn
Gốc còn trên đất Hải Dương
Lá cành hoa trái đã vươn khắp miền.
Ta về tìm lại Tổ tiên
Tìm về nguồn cội khí thiêng sinh thành
Hương dâng là nghĩa là tình
Thoảng thơm như thể tinh anh giống dòng.
Cúi mình trước đấng Tổ Tông
Râm ran như được tiếp dòng máu thiêng !
1998 Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr.170-171
THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNG
Hoàng Gia Cương
Cảm nhận của người con Mạc tộc
Xuất thân ngư phủ vạn chài
Ra khơi vào lộng nổi trôi bọt bèo!
Vươn lên từ phận đói nghèo
Đã thành tướng giỏi đã gieo Hoàng triều.
Cổ Trai xóm nhỏ đìu hiu
Ai hay nhân kiệt ẩn lều rạ tre
Từ tay kéo lưới đưa bè
Vung đao múa kiếm ngựa xe tung hoành.
Oai hùng khiển tướng điều binh
Thù trong khiếp đảm, thất kinh giặc ngoài
Xứ Đông cho chí xứ Đoài
Non sông một giải đẹp tươi mọi miền.
Bao nhiêu tiến sĩ, trạng nguyên
Nhờ thời Minh Đức mà nên hiền tài
Mượt đồng ngô lúa sắn khoai
Nhà nhà hạnh phúc, người người ấm no.
Bao công xây dựng cơ đồ
Vinh danh Mạc tộc, vững bờ Đại Nam
Sá chi miệng thế thăng trầm
Năm trăm năm … một chữ NHÂN rạng ngời !
6/2011 Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 406-407
NHÀ MẠC NHỮNG UẨN KHÚC LỊCH SỬ
Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Lung viết "Bản tuyên bố về lịch sử vương triều Mạc". Nội dung trong bản công bố này gồm 7 phần như sau : Phần I: Lịch sử nhà Mạc là lịch sử nhận thức hay lịch sử khách quan. Phần II: Sự kiện số I. NHÀ MẠC CẮT ĐẤT HAI CHÂU QUY THUẬN CHO NHÀ MINH. Phần III: Sự kiện số II. NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 6 ĐỘNG: TÊ PHÙ, KIM LẶC, CỔ SÂM, LIỄU CÁT, AN LƯƠNG, LA PHÙ CHÂU VĨNH AN TRẤN YÊN QUẢNG CHO NHÀ MINH Phần IV: Sự kiện số III. NHÀ MẠC THÀNH CÔNG TRONG VIỆC ĐÒI LẠI ĐẤT ĐAI CHO ĐẤT NƯỚC BỊ MẤT TỪ CÁC TRIỀU ĐẠI TIỀN NHIỆM. Phần V: Sự kiện số IV. VẤN ĐỀ ĐẦU HÀNG CỦA NHÀ MẠC. Phần VI: Sự kiện số V. NHỮNG DIỄN BIẾN XUNG QUANH VIỆC NHÀ MẠC RỜI THĂNG LONG NĂM 1592 VÀ SỐ PHẬN VUA MỤC TÔNG MẠC MẬU HỢP. Phần VII: Kết luận chung.
Tác giả Nguyễn Xuân Lung thay lời Ban Liên lạc Mạc tộc tuyên bố: "Vào năm 2017 (1697 – 2017) này, tác phẩm lịch sử “Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên” con đẻ của chế độ quân chủ (cung vua – phủ chúa) Lê Trịnh tròn 300 tuổi. Lịch sử nhà Mạc ra đời từ những trang sử ấy, những trang viết này là sản phẩm tư tưởng, quan điểm chính trị do một thể chế quân chủ mới (bình mới rượu cũ) “thắng cuộc” biên chép về bên “thua cuộc” là nhà Mạc. Suốt 300 năm qua chưa từng xuất hiện một nghiên cứu nào phân tích kĩ lưỡng nội dung mang tính cảnh báo: Coi chừng sẽ xuất hiện “lịch sử nhận thức” nhằm vào lịch sử nhà Mạc từ phía giới chuyên môn. Trừ một bài viết ngắn của giáo sư sử học Hà Văn Tấn có nhắc tới tính thực dụng soạn sử của Phạm Công Trứ. Xin hãy trả lại sự thật lịch sử chân chính của nhà Mạc đó là đòi hỏi từ thực tiễn, lẽ công bằng tự nhiên và là mệnh lệnh của cuộc sống, trong giai đoạn đổi mới và hội nhập toàn diện của đất nước chúng ta.
Tác giả Nguyễn Xuân Lung kiến nghị: " 1) Viết lại lịch sử nhà Mạc: Bằng việc tổ chức một hội đồng các nhà sử học có “tâm” có “tài” khai thác hết các tài liệu sử học có thể có trong nước, nước ngoài để định hướng cách viết mới khách quan và trung thực về lịch sử nhà Mạc.2)Xin chấm dứt sử dụng những giáo trình giảng dạy tại các trường đại học trong nước như cách viết của các ông Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh, Nguyễn Phan Khoa hay nội dung giảng dạy của một số tác giả nữ: Nguyễn Thị Côi, Nguyễn Thị Bích, Nguyễn Thị Thế Bình. Trong sách “Hướng dẫn trả lời câu hỏi và bài tập lịch sử lớp 10”, trong các cấp học phổ thông. 3) Xin chấm dứt những trang viết không đủ độ “chín” như bài viết của PGS – TS. Trần Thị Băng Thanh trên công luận về nhà Mạc.4) Xin dừng phổ cập các bài viết thể hiện sự xuống cấp về mặt đạo đức, tư cách con người như trường hợp: Hoàng Thiếu Phủ vv. 5) Xin chấm dứt những bài báo giấy, báo điện tử khai thác những tư liệu dập khuôn sử cũ để viết về lịch sử nhà Mạc, vẽ tranh châm biếm, dựng truyện, dựng tuồng, chèo, khai thác những tình tiết phản cảm về vị vua thứ 5 nhà Mạc: Mạc Mậu Hợp".
Bản tuyên bố là có căn cứ khoa học với sự kiện lịch sử trung thực, Kiến nghị sự công tâm khách quan giải mã. Tôi xin lưu lại toàn văn, mong được sự chung sức nghiên cứu và chỉ giáo của quý bạn đọc.
Hoàng Kim
Trích dẫn toàn văn:
Nguyễn Xuân Lung
LỜI MỞ ĐẦU
Chúng tôi được biết chính phủ
nước CHXHCNVN đã quyết định đầu tư, tổ chức và tập trung các nhà khoa
học hàng đầu ngành sử học trong cả nước thực hiện việc biên dịch, hiệu
đính, sửa chữa bổ sung và viết tiếp bộ quốc sử của đất nước.Trải qua hàng mấy ngàn năm lịch sử của dân tộc, lịch sử dựng nước, bảo vệ đất nước, dựng xây đất nước đã được các thế hệ tiền nhiệm trao gửi cho các thế hệ đời sau bằng các tác phẩm lịch sử được gọi là quốc sử như bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” hoặc “Việt sử thông giám cương mục”. Quá trình hình thành nên bộ quốc sử “Đại Việt sử ký toàn thư” là sự cấu thành tổng hợp các tác phẩm lịch sử của từng thời kỳ lịch sử của đất nước ta như: “Đại Việt sử ký” do sử thần Lê Văn Hưu thực hiện, “Sử ký tục biên” do sử thần Phan Phù Tiên biên soạn, tiếp theo là “Sử ký toàn thư” do sử thần Ngô Sỹ Liên soạn chép và sau đó là bộ “Bản kỷ tục biên” do các sử thần đời Lê trung hưng sửa chữa, bổ xung, chép mới mà thành.
Gần đây nhất các sử thần triều đình nhà Nguyễn biên soạn bộ “Việt sử thông giám cương mục”. Thời gian tiếp theo sau đó vào những năm 1971, năm 2007 các tác phẩm lịch sử như “Lịch sử Việt Nam”, “Lịch sử Việt Nam thế kỷ…” do các sử gia ngày nay thực hiện. Quá trình liên tục này không nằm ngoài mục đích bổ xung sự kiện lịch sử giai đoạn trước kia và chép mới lịch sử tiếp theo của đất nước, hành trình dài lâu từ các thế hệ sử gia là nhằm gìn giữ những giá trị chân chính của lịch sử đồng thời đảm nhiệm việc kế thừa từ quá khứ cho hiện tại và tương lai hậu thế.
Cố đại tướng Võ Nguyên Giáp nguyên chủ tịch danh dự hội sử học Việt Nam từng nói: “Lịch sử chỉ diễn ra một lần còn viết sử phải trải qua nhiều lần”, do nguyên nhân nào mà sử phải viết đi viết lại nhiều lần? Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng tập trung lại là hai nguyên nhân cơ bản sau đây:
* Nguyên nhân từ khách quan: Sử cũ không ghi chép hết các sự kiện của lịch sử, ngày nay dưới ánh sáng khoa học của các ngành học khác như: Khảo cổ học, văn bản học, khoa học kỹ thuật tiên tiến rọi vào quá khứ, bắt lịch sử phải lên tiếng, do đó cần phải bổ xung các sự kiện lịch sử này vào sử. Con người hiện tại không thể phục hồi nổi sự kiện lịch sử vì thời gian quá xa hoặc do chiến tranh, do loạn lạc, sử liệu đời xưa bị mất mát thất lạc nay được tìm ra, người chép sử đời nay phải biên dịch và chép bổ xung những tìm tòi khám phá mới này.
* Nguyên nhân từ chủ quan: Nguyên nhân này từ con người gây nên, trải qua thời gian xoay chuyển, chế độ chính trị này thay thể chế độ chính trị khác. Triều đại mới thay thế triều đại cũ, do sức ép từ gươm giáo, vật chất nên con người cụ thể là các nhà soạn sử, tuân lệnh phụng sự theo ý chí và mục đích nhà cầm quyền đương thời trong công việc soạn sử. Những sự kiện lịch sử ra đời như vậy người ta gọi là: “Lịch sử nhận thức”, “lịch sử nhận thức” loại bỏ sự thật lịch sử ra khỏi từng sự kiện lịch sử đã xảy ra mà nó đối kháng, đồng thời phá hủy hai giá trị cơ bản khách quan và công bằng của lịch sử nguyên thủy. Do vậy, người phê bình lịch sử đời sau dày công nghiên cứu nhận dạng “lịch sử nhận thức”, đồng thời trả lại cho lịch sử đã bị bóp méo sai sự thật trở lại với chính nó. Chính vì vậy, sử cần soạn lại nhiều lần như cố đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói ở trên.
Kính thưa Quý vị!
Chúng tôi là người họ Mạc – gốc Mạc sinh sống tại Hà Nội cùng với mọi dòng họ trên đất nước đứng trước một “cơ hội”, một “cơ hội” quý báu để đóng góp những chính kiến mới với lịch sử dân tộc nói chung hay lịch sử từng triều đại nói riêng. Đó là một “cơ hội” góp phần cho quá trình minh bạch lịch sử hiếm hoi này. Bản thân chúng tôi là những người không có chuyên môn về lịch sử hay địa lý, thậm chí không có văn bằng chứng chỉ gì từ các môn xã hội học, là một tập thể người họ Mạc- gốc Mạc trải qua nhiều năm, mỗi người mỗi việc, thảo luận tranh cãi rồi chấp bút. Nguồn sách vở do tự tìm kiếm và tiếp cận, trong đó phải kể đến nguồn sách vở quan trọng nhất là do được sự giúp đỡ từ cố PGS – TS sử học Nguyễn Hải Kế, ông đã cho phép chúng tôi khai thác nguồn sách lịch sử rất lớn tại khoa sử trường ĐH KHXH&NV mà ông là trưởng khoa. Cộng vào đó là nguồn tư liệu lịch sử, dư địa chí tại thư viện quốc gia, thư viện viện sử học, thư viện viện thông tin, thư viện viện Hán nôm và các nhà sách tư nhân trong cả nước.
Là những người bình dân ngoài xã hội chữ nghĩa vốn từ hạn hẹp dấu phảy dấu chấm lộn xộn không khỏi gây khó chịu phản cảm cho người đọc, chúng tôi cũng thành tâm xin được bỏ qua những hạn chế không mong muốn này.
Nội dung trong bản công bố này gồm 7 phần như sau :
Phần I: Lịch sử nhà Mạc là lịch sử nhận thức hay lịch sử khách quan
Phần II: Sự kiện số I
Phần III: Sự kiện số II
Phần IV: Sự kiện số III
Phần V: Sự kiện số IV
Phần VI: Sự kiện số V
Phần VII: Kết luận chung
Phần I: Lịch sử nhà Mạc là lịch sử nhận thức hay lịch sử khách quan
Vương triều Mạc là một triều đại tồn tại chính thức trong lịch sử Việt Nam, kéo dài 150 năm từ lúc xuất hiện đến lúc suy vong (1527 – 1677). Sự xuất hiện lịch sử vương triều Mạc trong bộ quốc sử “Đại Việt sử ký toàn thư” từ 300 năm qua, xu thế của toàn xã hội là lên án phê phán gay gắt nhà Mạc. Những tồn tại không mong muốn này xuyên qua ba thế kỷ, hệ lụy của nó ảnh hưởng không nhỏ tới tiến trình minh bạch lịch sử nói chung và vương triều Mạc nói riêng. Do vậy, những vấn đề đầu tiên cần phải làm rõ gồm các nội dung như sau: Mô tả hai nguồn sử liệu trực tiếp và gián tiếp áp dụng vào công việc soạn sử, đồng thời phân tích mục đích, phương pháp, nguồn sử liệu được sử dụng trong việc soạn lịch sử nhà Mạc do các sử gia Lê trung hưng thực hiện. Cùng với nội dung trên cần làm rõ nguồn sử liệu trực tiếp ra đời từ vương triều Mạc và dòng họ Mạc hiện nay còn lại những gì. Những việc làm đầu tiên này là hết sức cơ bản, nhằm khởi tạo xây dựng một hành lang lý luận cơ sở được hiểu đơn giản từ sử học, phục vụ cho tiến trình bạch hóa năm sự kiện lịch sử chính quan trọng của nhà Mạc, được chúng tôi trình bày trong bản tuyên bố sau đây.
1.1. Nguồn thư tịch của cả xã hội
Chúng tôi cho rằng: Cho đến thời điểm hiện tại (2017) trong tất cả nguồn thư khố VN, các nhà sách tư nhân, các nhà sưu tầm sách trong cả nước không còn bất cứ một tư liệu chính sự trực tiếp ra đời từ vương triều Mạc tồn tại tới ngày nay, được minh chứng từ sự diễn giải sau đây:
* Năm 1759 Lê Quý Đôn soạn bộ “Thông sử” tại mục nghệ văn chí cho biết:
“Ứng giáp bang giao: 10 quyển do Giáp Trừng soạn”
[Đại Việt thông sử – viện sử học – nghệ văn chí, tr129, NXB VHTT, 2007]
* Tiếp đó năm 1809, Phan Huy Chú soạn bộ “Lịch triều hiến chương loại chí” tại mục văn tịch chí thống kê sách chính sự nhà Mạc còn 02 cuốn:
– Cuốn thứ nhất: “Mạc triều chính sự 6 quyển không hiểu ai soạn, chép chính sự của 6 thuộc (bộ) của nhà Mạc rất kỹ lưỡng”
[Lịch triều hiến chương loại chí – văn tịch chí, tr44, t4, NXB sử học, 1962]
Sáu quyển “Mạc triều chính sự” mà Phan Huy Chú cho biết hiện nay không còn, giả dụ 6 cuốn này còn lại đến nay thì nguồn tư liệu đó không vượt qua được những hoài nghi nguồn gốc xuất xứ của nó bởi lý do: Không có tác giả! (Một tác phẩm lịch sử quan trọng của một vương triều không xuất hiện người chủ biên, đó là điều không dễ chấp nhận)
– Cuốn thứ hai: “Ứng đáp bang giao” (hay còn gọi là “Cổ Kim bang giao bị Lãm”) 10 quyển trạng nguyên nhà Mạc Giáp Trừng soạn, chép các thư từ và biểu văn về việc bang giao của các triều còn 3 quyển”
[Lịch triều hiến chương loại chí – văn tịch chí, tr44, t4, NXB sử học, 1962]
Từ trên ta biết, sau 50 năm (1759 – 1809), 10 cuốn sách trên còn lại 3 cuốn, cho đến ngày nay cuốn sách “Ứng đáp bang giao” còn lại 21 tờ, khổ (22 cm x 31 cm) kí hiệu: A185 được lưu trữ tại Thư viện Viện Hán Nôm, nội dung là biểu tấu của Lê Lợi và Lê Thái Tông đầu kỷ nhà Lê.
[nguồn: Nguyễn Văn Nguyên: “tấu, biểu đấu tranh ngoại giao của Nguyễn Trãi” tủ sách Việt Nam IX, viện viễn đông bác cổ, tr61 – 75, NXB thế giới, 2003]
Trong khi đó những tác phẩm thơ văn(không liên quan đến chính sự) do Nguyễn Bỉnh Khiêm sáng tác còn lại đến ngày nay khá đầy đủ, một số tác phẩm này được lưu trữ tại thư viện viện Hán nôm như sau:
– Bạch Vân Am Trình quốc công thi tập có 12 cuốn KH từ A2591 đến VHv 2615
– Bách vạn Nguyễn Trình quốc công lục kí. KH: VHv1453
– Bạch vân thạch thất. KH: VNv218
– Sấm kí bí truyền. KH: VHv2251
– Trình tiên sinh quốc ngữ. KH: AB444
– Trình quốc công bạch vân thi tập. KH: AB157 đến AB309
– Trình quốc công kí. KH: VNv102
– Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập. KH: AB635
– Trình quốc công sấm kí. KH: AB345
[Thư mục sách Hán nôm – viện Hán nôm]
Đưa ra một ví dụ nhỏ này để quý vị hình dung số phận một nguồn tư liệu trực tiếp về chính sự một triều đại, đã bị bàn tay của con người và thời gian đưa dần về con số không.
1.2. Nguồn tư liệu từ dòng họ Mạc
Nguồn tư liệu trực tiếp từ dòng họ Mạc, gốc Mạc còn lưu trữ từ xưa tới nay được tạo dựng từ các dạng vật thể tâm linh như: Gia phả, văn tế, văn bia, y môn, câu đối, hoành phi cùng các vật thể cung đình có thể góp phần cho tiến trình bạch hóa lịch sử vương triều Mạc hiện còn những gì? Chúng tôi xin thưa rằng: Họ Mạc là một dòng họ lớn có cùng một tiến trình phát triển chung trong lịch sử đất nước như bách tính cộng đồng. Nhưng người họ Mạc gốc Mạc chúng tôi còn có những đặc thù riêng được tạo ra bởi những biến động lịch sử từ hai thời kỳ:
– Hậu Thăng Long: 1592
– Hậu Cao Bằng: 1677
Người họ Mạc sau những cuộc di dân lớn từ thời gian nói trên, đến năm 1786 mới có cơ hội ổn định cuộc sống và xây dựng văn hóa tâm linh. Với thời gian gần 200 năm đó, thời gian ấy, là những trang sử bi ai của các chi họ Mạc, gốc Mạc sinh cơ lập nghiệp từ các vùng miền đất nước. Tại thời điểm này đã 7, 8 đời người qua đi, hầu hết các cuốn gia phả của các chi họ Mạc, gốc Mạc được ghi chép từ năm 1800 trở lại đây. Dòng họ Mạc không còn ngọc phả, kim phả hay một quyển gia phả duy nhất được giữ gìn chính thống theo ngành trưởng. Nhà thờ họ xây dựng năm 1738 tại Hoa Thành, Yên Thành, Đô Lương, Nghệ An do dòng họ Phan Đăng quản lý được coi là một nhà thờ họ có thời gian xây dựng sớm nhất sau hai biến cố lớn nói trên.
Từ những biến động lịch sử liên tục tiếp theo của đất nước, các loại gia phả, văn bia, văn tế, y môn, hoành phi, câu đối tại các chi họ Mạc, gốc Mạc trong cả nước không còn nhiều. Cho đến thời điểm hiện tại, nguồn tư liệu kế tiếp này do các chi họ Mạc, gốc Mạc quản lý không thể giúp gì phục dựng lại lịch sử vương triều Mạc.
Về vật thể lịch sử, có lẽ còn duy nhất thanh long đao của Mạc Thái Tổ được con cháu dòng họ Phạm(gốc Mạc) tại Nam Định cất giữ. Thực chất việc lưu giữ này là do chôn dấu mà còn, hiện thanh long đao này được bảo quản, thờ tự tại khu tưởng niệm các vua nhà Mạc tại Kiến An, Kiến Thụy, Hải Phòng.
Vậy là, nguồn thư tịch ngoài xã hội cùng tư liệu của cả một dòng họ có quan hệ huyết thống gắn liền với những nhân vật lịch sử một vương triều đã không còn tồn tại đến ngày nay.
Đứng trước một thực tế về nguồn sử liệu trực tiếp ra đời từ nhà Mạc và nguồn tư liệu trong nội bộ các chi họ Mạc đã viết ở trên, việc cần phải phân biệt rạch ròi giữa hai nguồn sử liệu trực tiếp và gián tiếp được đưa vào nội dung soạn lịch sử nhà Mạc mà các sử thần Lê trung hưng thực hiện là cần thiết. Song song với nội dung trên cần phải làm rõ mục đích, phương pháp soạn sử mà các sử gia Lê trung hưng áp dụng trong việc biên soạn lịch sử là những công việc đầu tiên sau đây.
Nguồn sử liệu trực tiếp từ chính vương triều Mạc như trên đã trình bày, đến năm 1665 có thể coi như không tồn tại(căn cứ vào lời đề tựa cuốn “Bản kỷ tục biên”). Để có thể hiểu những định nghĩa cơ bản của hai dạng sử liệu trực tiếp và gián tiếp được áp dụng khi soạn sử sẽ được trình bày đơn giản như sau:
Nguồn sử liệu trực tiếp được định nghĩa: là sử liệu được ghi chép tại thời điểm lúc xảy ra sự kiện do người làm công tác chép sử ghi bút trung thực, đầy đủ và khách quan…. Để hình dung rõ hơn nội dung định nghĩa của sử liệu trực tiếp, xin đưa ra hai ví dụ từ “Đại Việt sử ký toàn thư” và “Thông sử” mô tả sử liệu trực tiếp như sau:
“Vua muốn xem quốc sử, sai nội quan đến viện hàn lâm bảo sử quan Lê Nghĩa rằng: “Ngày xưa Phòng Huyền Linh làm sử quan, Đường thái tôn muốn xem thực lực (quốc sử, do sử quan chép công việc thực tế của vua làm) Huyền Linh không cho xem. Nay ngươi so với Huyền Linh thì ai hơn?” Nghĩa trả lời: “Việc ở cửa Huyền Vũ, Huyền Linh lại không cứ thẳng mà chép, đến khi thái tôn bảo chép rồi mới chép” (Việc ở cửa Huyền Vũ; tức việc Đường thái tôn bắn giết anh em là Kiến Thành và Nguyên Cát, Phòng Huyền Linh chỉ chép lờ mờ là việc này mồng 4 tháng 6 thôi. Thái Tôn thấy chép thế bắt Huyền Linh phải chép rõ). Sợ chưa phải là hiền”. Nội quan nói: “Vua muốn xem nhật lịch từ năm Quang Thuận thứ 1 đến năm thứ 8”. Nghĩa trả lời: “Vua mà xem quốc sử vốn không phải là việc tốt Đường thái tôn và Phòng Huyền Linh làm thế, bị đời sau chê”
[Đại Việt sử ký toàn thư, tr292, t2, NXB VHTT, 2004]
Trong tác phẩm “Thông sử”, Lê Quý Đôn cho chúng ta biết việc soạn sử trực tiếp đời xưa như sau:
“Tuân Duyệt đời Hán nói: Thời xưa, triều đình có 2 tòa sử. Tòa sử bên tả chép lời vua nói, tòa sử bên hữu chuyên chép việc vua làm. Mỗi khi vua có cử động, đều ghi chép hết. Cho nên điều hay điều dở và việc thành việc bại của nhà vua, hay điều còn lại. Dưới đến kẻ sĩ và thứ dân, nếu có người sai, vật lạ cùng đều ghi chép. Bởi thế việc phải trái chỉ trong 1 ngày mà vinh nhục lưu truyền ngàn thuở”
[Đại Việt thông sử, tr27, NXB VHTT, viện sử học, 2007]
Sử liệu trực tiếp xuất hiện đồng thời cùng sự kiện lịch sử đã được diễn giải từ hai ví dụ nêu ra ở trên, điều này góp phần việc hiểu đúng bản chất nguồn sử liệu trực tiếp ra đời trong biên chép lịch sử nói chung.
Sử liệu gián tiếp là sử liệu ghi chép sự kiện thông qua thông tin gián tiếp(nghe, kể và qua nguồn sách vở khác) mà thời gian tiếp cận không đồng thời với thời điểm sự kiện ra đời. Do đó, việc biên chép lịch sử sử dụng nguồn sử liệu gián tiếp phụ thuộc hoàn toàn vào trách nhiệm, mục đích, ngòi bút của người soạn sử. Từ hoàn cảnh ấy, nội dung tác phẩm sử học phụ thuộc giá trị đạo đức, nhân phẩm, phạm vi nghiên cứu sâu rộng từ con người tạo nên các tác phẩm sử học, khi sử dụng nguồn sử liệu gián tiếp trong lĩnh vực sử học.
“Đại Việt sử ký toàn thư” là bộ sử cũ nhất của nước ta, quá trình hình thành bộ sử này là sự sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn gián tiếp hoặc trực tiếp từ nhiều tác giả theo từng thời kỳ lịch sử đã được các thể chế chính trị quân chủ nước nhà quyết định biên soạn.
Năm Cảnh Trị thứ 3 Lê thiền tông tức vào năm 1665, chúa Trịnh Tạc sai tứ mậu thìn khoa đồng tiến sỹ xuất thân, tham tụng lại bộ thượng thư kiêm đông các đại học sỹ thiếu bảo yên quận công Phạm Công Trứ chủ biên công việc hiệu đính, chỉnh lý công trình của sử gia Ngô Sỹ Liên và viết tiếp phần “Bản kỷ tục biên”. Chép mới từ Lê Cung Hoàng tới hết đời vua Lê thiền tông (1525- 1643), phần chép mới vào khoảng 110 năm lịch sử triều Lê trung hưng, trong đó phần biên soạn lịch sử vương triều Mạc được chép là phần “phụ”, song song thế thứ các đời vua Lê trung hưng, với tên gọi của tác phẩm là:“Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên”.
“Kính nghĩ hoàng thượng bệ hạ, nối giữ nghiệp lớn, noi theo pháp lớn, hằng ngày cùng đại nguyên soái chưởng quốc chính thượng thư tây vương (Trịnh Tạc) chỉnh đốn rường mối chấn hưng văn giáo, chuyên ủy do khâm sai tiết chế các xứ thủy bộ chủ doanh kiêm tổng chinh binh thái úy nghị quốc công Trịnh Căn giữ gốc chính trị, tìm lẽ trị bình, biết sâu sắc rằng sử là để chính danh phận cho đương thời mà bảo cho đời sau biết khuyên răn, bấy giờ mới bắt đầu quyết đoán trong lòng, tìm kiếm sử sách đặc chỉ sai thần (PCT) cùng với bọn tả thị lang Dương Hạo, hữu thị lang Hồ Sỹ Dương, Nguyễn Quốc Khôi, Đặng Công Chất, tự khanh Nguyễn Công Bích, Đông các Bùi Đình Viên, thị thư Đào Công Chính, thị chế Ngô Khuê, Phủ doãn Nguyễn Đình Chính, cấp sự trung Nguyễn Công Bật, hàn lâm Nguyễn Viết Thứ; Vũ Duy Đoán khảo đính quốc sử từ Hồng Bàng thị cho đến Cung Hoàng, lại sai chép nối từ Trang tôn tự hoàng đế đến khoảng năm Vạn Khánh đời Thần tôn Uyên hoàng đế, biên thuật thành sách, cho khắc in để ban hành”
[Đại Việt sử ký toàn thư – tựa sách “ĐVSKTB” tr14 – 15, t1, NXB VHTT, 2004]
Để làm rõ hơn về trách nhiệm biên soạn của nhóm Phạm Công Trứ, sau đây sẽ có hai nhận xét về sự ra đời của “Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên” từ “Thông sử” và các sử gia đời nay:
“Tế tửu Ngô Sỹ Liên chép từ đời Thuận Thiên (1428 – 1433) đến đời Diên Ninh (1454 – 1459) làm tam triều bản kỷ, kể việc cũng kỹ và có mối giường. Bấy giờ kén chọn sử quan rất cẩn trọng, như sử quan Lê Nghĩa (chép thẳng gửi ngay, có khí tiết như cổ nhân, nhưng sách chép việc hàng ngày đó nay không còn nữa. Đến đời Hồng Thuận (1509 – 1516) thì tổng tài Vũ Quỳnh mới chép từ đời Quang Thuận (1460 – 1469) đến đời Đoan Khánh (1505 – 1509) làm tứ triều bản kỷ, sắc lệnh và điều lệ thì hơi đủ, còn công việc bổ dụng và tấu sớ của các quan thì thiếu sót nhiều. Từ đời Hồng Thuận trở đi đến đời Dương Đức (1672 – 1673) buổi đầu Trung hưng, các sử thần biên chép tiếp theo”
[Thông sử, tr23, viện sử học, NXB VHTT, 2007]
Năm 1993 nhà xuất bản khoa học xã hội in cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư” bản in nội các quan bản – mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697). Phần biên dịch do hai ông Hoàng Văn Lâu và Ngô Thế Long đảm nhiệm, phần hiệu đính do giáo sư Hà Văn Tấn phụ trách, tại mục “giới thiệu bản in: “Đại Việt sử ký toàn thư” mới phát hiện của Phạm Công Trứ – Ngô Thế Long viết:
“Tên sách, bố cục, nội dung của bản (do cố bộ trưởng giáo dục Nguyễn Văn Huyên lưu giữ) đúng với lời tựa của Phạm Công Trứ , ta thấy:
– Toàn thể bộ sách do nhóm ông làm kể cả phần sửa lại sử cũ của các tác giả đời trước, kể cả phần nhóm ông mới chép thêm bao gồm từ thời Hồng Bàng (2879 TCN) đến hết đời vua Lê Thần Tông (1662) cộng 23 quyển
– Riêng phần do nhóm ông mới biên soạn thêm (viết mới) từ Lê trung hưng đến Lê Thiền Tông được đặt tên là: “Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên” (thường gọi tắt là: “Bản kỷ tục biên”)”
[Giới thiệu bản in ĐVSK Bản kỷ tục biên, tr303, t3, ĐVSKTT- bản in nội các quan bản – mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), NXB KHXH, 1993]
Qua những phân tích từ hai lần dẫn trên, chúng ta khẳng định chính xác phủ chúa (Trịnh Tạc) quyết định việc biên soạn “Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên” – Trong đó Phạm Công Trứ được giao chủ biên, cùng với 12 sử gia trong nhóm thực hiện.
Dưới đây là mục lục tóm tắt việc biên soạn lịch sử vương triều Mạc, song cùng lịch sử các đời vua Lê trung hưng trong “Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên” như sau :
* Phụ: Mạc Đăng Dung ( Minh Đức 3 năm)
Mạc Đăng Doanh (Đại Chính 3 năm)
+ Trang tôn dụ hoàng đế ở ngôi 16 năm đặt niên hiệu 1 lần Niên hiệu Nguyên Hòa (16 năm)
* Phụ Mạc Đăng Doanh (Đại Chính 8 năm)
Mạc Phúc Hải (Quảng Hòa 6 năm)
Mạc Phúc Nguyên (Vĩnh Định 1 năm, Cảnh Định 1 năm)
+ Trung Tôn vũ hoàng đế (ở ngôi 8 năm đặt niên hiệu 1 lần)
Niên hiệu Thuận Bình (8 năm)
* Phụ: Mạc Phúc Nguyên
Cảnh Lịch 5 năm, Quang bảo 3 năm
+ Anh Tôn Tuấn hoàng đế (ở ngôi 16 năm đặt niên hiệu 3 lần)
– Thiên Hựu (1 năm)
– Chính trị (14 năm)
– Hồng Phúc (1 năm)
* Phụ Mạc Phúc Nguyên (Quang Bảo 5 năm)
Mạc Mậu Hợp (Thuần phúc 5 năm, Sùng Khang 6 năm)
* Thế tôn nghị hoàng đế (ở ngôi 27 năm, đặt niên hiệu 2 lần)
Gia Thái (5 năm)
Quang hưng (22 năm)
* Phụ : Mạc Mậu Hợp (Sùng Khang 6 năm, Diên Thành 7 năm, Đoan Thái 3 năm, Hưng trị 3 năm, Hồng Ninh 2 năm)
* Kính tôn huệ hoàng đế (ở ngôi 19 năm đạt niên hiệu 3 lần)
Thận Đức (1 năm)
Hoằng Định (18 năm)
* Thần tôn uyên hoàng đế (thượng) ở ngôi 25 năm truyền ngôi cho thái tử đặt niên hiệu 3 lần
Vĩnh Độ (18 năm)
Đức Long (7 năm)
Dương Hòa (8 năm)
* Chân Tôn thuận hoàng đế (ở ngôi 7 năm đặt niên hiệu 1 lần)
Phúc Thái (7 năm)
* Thần tôn uyên hoàng đế (hạ) (lại lên ngôi 17 năm đặt niên hiệu 4 lần)
Khánh Đức: 5 năm
Thịnh Đức: 6 năm
Vĩnh Thọ: 5 năm
Vạn Khánh: 1 năm
[Mục lục “Đại Việt sử ký toàn thư”, tr 36-38, NXB VHTT, 2004]
Thống kê trên đây trong “Bản kỷ tục biên” là mục lục chính phần biên soạn hoàn toàn mới của nhóm Phạm Công Trứ. Đến đời chúa Trịnh Căn(1633 – 1709) Lê Hy được sai viết tiếp “Bản kỷ tục biên” từ đời vua Lê Huyền Tôn(1662 – 1671) đến hết đời Lê Gia Tông(1671 – 1675). Bộ sử dừng tại đây được khắc in và phát hành năm 1697 ra xã hội.
(Một số học giả người VN ở nước ngoài cho rằng Ngô Sỹ Liên biên soạn lịch sử vương triều Mạc là một sự nhầm lẫn đáng tiếc).
Tiểu kết: Trên đây là xuất xứ sự ra đời lịch sử vương triều Mạc được thể chế quân chủ Lê trung hưng quyết định biên soạn dưới sự chủ biên của Phạm Công Trứ và nhóm biên soạn thời đó.
III. TÌM HIỂU MỤC ĐÍCH VIỆC SOẠN SỬ, NGUỒN SỬ LIỆU SỬ DỤNG, PHƯƠNG PHÁP BIÊN SOẠN TRONG VIỆC SOẠN LỊCH SỬ VƯƠNG TRIỀU MẠC.
Chúng ta thấy rằng mục đích việc soạn sử hay tôn chỉ của tác phẩm sử học được thể hiện tóm lược thông qua lời đề tựa mỗi một tác phẩm lịch sử khi ra đời. Để có thể nhận định bước đầu mục đích soạn sử mà các sử gia Lê trung hưng thực hiện, chúng tôi xin đưa ra hai dẫn chứng từ hai lời đề tựa của hai tác phẩm lịch sử ra đời từ nhà Lê trung hưng:
– Lời tựa “Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên” do Phạm Công Trứ chủ biên.
– Lời tựa cuốn: “Lê triều trung hưng công nghiệp thực lục” do Hồ Sỹ Dương soạn, ông cũng là người tham gia trong nhóm biên soạn lịch sử vương triều Mạc, cuốn “Lê triều trung hưng công nghiệp thực lục” ra đời sau “Đại Việt sử ký bản kỉ tục biên” gần 10 năm sau đó.
* Lời tựa cuốn “Đại Việt sử ký bản kỉ tục biên” chép:
“Vì sao mà làm quốc sử? Vì chủ yếu của sử là ghi chép công việc, có chính trị của một đời, tất phải có sử của đời ấy, mà sự ghi chép của sử giữ nghị luận rất nghiêm, tô điểm việc trí trị thì sáng tỏ ngang với mặt trời mặt trăng, răn đe kẻ loạn tặc thì ráo riết như sương thu lạnh buốt. Người thiện biết có thể bắt chước, người ác biết có thể tự răn, quan hệ với việc chính trị không phải là không nhiều cho nên mới làm ra sử”
[Đại Việt sử ký bản kỉ tục biên, Tr13, Đại Việt sử ký toàn thư, NXB VHTT, 2004]
Qua những dòng chữ đã dẫn ở trên, mục đích biên soạn “Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên” đã được Phạm Công Trứ đưa ra là khá rõ ràng thực dụng. Tác giả đã không úp mở che đậy đường đi, nước bước để đạt mục đích khi soạn “Bản kỷ tục biên” thông qua ba ý chính sau:
– Tô điểm việc trí trị của nhà cầm quyền đương thời mà Phạm Công Trứ phục vụ, thêm phấn, gửi hương cho thể chế chính trị cầm quyền.
– Trấn áp, răn đe kẻ loạn tặc, phản ứng quyết liệt với đối thủ chính trị, Phạm Công Trứ dùng các động từ khá nặng mang tính răn đe như: Truất, biếm, hạ nhục, lực lượng chính trị đối kháng của nhà Lê trung hưng.
– “Sương thu lạnh buốt” một hình tượng hóa được Phạm Công Trứ trao gửi cho lực lượng chính trị đối kháng với nhà Lê trung hưng. Người xưa thường dùng: Sương xuân (móc ngọt) làm cây cối tốt tươi, sương thu tàn phá sức sống muôn loài thực vật…
* Lời tựa cuốn “Lịch triều trung hưng công nghiệp thực lục” do hữu thị lang Hồ Sỹ Dương chủ biên chép:
“Tại sao mà làm ra quyển thực lục này? Là để thuật việc chép công, rõ chính thống ghi dòng hiền, cũng có lý do mà làm ra đó”
“Những việc có dính líu đến tiếm thiết thì một chữ cũng ngụ ý búa rìu, những việc có can thiệp đến nghĩa chính thống thì 1 câu cũng rõ lời gấm vóc”
[Lịch triều trung hưng công nghiệp thực lục, Tr1 – 3, Trần Lê Hữu dịch,
KH: LS/TL 0233, tư liệu khoa học lịch sử ĐH KHXH&NV]
Mục đích soạn sử(thực lục) qua ngòi bút hữu thị lang Hồ Sỹ Dương còn thực dụng hơn cả Phạm Công Trứ, đối tượng phục vụ của việc soạn sử được chia ra làm hai luồng chính kiến rất rõ ràng, không hề che đậy mục đích cá nhân:
– Làm rõ chính thống, thì một câu cũng rõ lời gấm vóc.
– Những việc có dính líu đến tiếm thiết thì một chữ cũng ngụ ý búa rìu.
Thông qua hai lời đề tựa trên từ hai tác phẩm sử học ra đời cùng thời, cả hai tác phẩm lịch sử nói trên với mục đích soạn sử tuân thủ một nguyên tắc không thay đổi từ ban đầu, khước từ những nguyên lý cơ bản biên soạn của lịch sử nguyên thủy. Với lời tuyên ngôn đầu tiên rõ ràng không cần úp mở, các sử gia Lê trung hưng đặt ra cho mình một nhiệm vụ nhất quán: Phục vụ sự nghiệp chính trị từ đòi hỏi của chính thể đương thời nhà Lê trung hưng.
Lời tựa “Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên” chép:
“Còn từ Thái tôn đến cung hoàng của quốc triều thì nhân theo sách trước đã chép, để làm bản kỷ thực lục. Lại tham khảo sách dã sử của Đăng Bính và lược lấy trong những sách sót của người đương thời dâng hiến mà chép từ quốc triều Trang Tôn Dụ hoàng đế đến Thần Tôn Uyên hoàng đế, thêm vào quốc sử gọi là Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên tất cả chia làm 23 quyển”
[Đại Việt sử ký toàn thư, Lời tựa Đại Việt sử ký bản kỉ tục biên, tr 14, T1, NXB VHTT, 2004]
Từ lời dẫn trên, nguồn sử liệu do sử gia Lê trung hưng sử dụng để soạn lịch sử vương triều Mạc trong “Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên” được cung cấp bởi hai nguồn tư liệu lịch sử chính thức:
– Sách dã sử của Đăng Bính.
– Sách sót của người đương thời.
Bản thân hai nguồn sử liệu này, hoàn toàn không phải là nguồn sử liệu trực tiếp ra đời từ chính sự vương triều Mạc, nếu chấp nhận khai thác chỉ có thể được liệt vào nguồn sử liệu gián tiếp dùng để tham khảo trong quá trình soạn chép lịch sử nói chung.
* Về sách dã sử:
Dã, âm Hán Việt mô tả là: Thôn, quê, đồng quê, trong đó dã sử được định nghĩa là sử dân gian, sử do dân gian ghi chép lưu truyền. Tại thời điểm các sử gia Lê trung hưng soạn sử vương triều Mạc tính từ: [(1665 – 1527) là 138 năm], [(1665 – 1592) là 73 năm]. Với thời gian trên, cứ cho rằng do những biến động chính trị, có thể chấp nhận không còn sử liệu trực tiếp ra đời từ vương triều Mạc, với việc sử dụng nguồn sử liệu gián tiếp từ dã sử, chỉ có thể được coi là nguồn tư liệu phân dạng thứ yếu(phụ) trong quá trình soạn sử này. Một tác giả dã sử có nhân thân[Đăng Bính] không có tên tuổi sự nghiệp thanh danh trong danh biểu đất nước, chúng ta khó có thể tìm ra danh tích một con người như vậy và tác phẩm dã sử của ông đã được các sử gia Lê trung hưng tìm tới sử dụng.
* Về sách sót của người đương thời
Người đương thời là ai? Sách sót có nguồn gốc từ đâu? Vô hình chung Phạm Công Trứ đưa nguồn sử liệu gián tiếp để ghi chép lịch sử vương triều Mạc vào một ma trận không có cửa thoát. Từ hai nguồn sử liệu trên, không có một sử gia nào chứng minh được các loại “sách sót”, “sách dã sử” của Đăng Bính có mặt tại thời điểm năm 1665 này. Hai nguồn sử liệu “đặc biệt” xuất hiện do các sử gia Lê trung hưng công bố trong lời đề tựa tác phẩm lịch sử của họ. Cả hai nguồn sử liệu nêu trên được đưa vào nguồn tư liệu chính để biên chép lịch sử nhà Mạc như vậy, việc làm này có đáp ứng đầy đủ các tiêu chí cần thiết để soạn lịch sử khách quan của nhà Mạc hay không?
Phạm Công Trứ viết trong lời tựa “Bản kỷ tục biên” như sau:
“Còn như phàm lệ biên chép đều theo đúng cách thức của sách sử trước”
[Tựa “Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên”, tr16, t1, NXB VHTT, 2004]
Người xưa đã nói: Danh có chính thì ngôn mới thuận, nhìn suốt quá trình biên soạn quốc sử từ ngoại kỷ, tới kỷ nhà Đinh, nhà Lê Đại Hành, nhà Lý, nhà Trần, nhà Hồ, nhà Lê. Các sử gia đời trước như Lê Văn Hưu, Phan Phù Tiên, Vũ Quỳnh, Ngô Sỹ Liên thực hiện việc soạn sử với phương châm: Chính danh, chịu trách nhiệm chính trị đối với quá khứ, hiện tại, tương lai đối với tác phẩm lịch sử của họ. Điều này được thể hiện qua các lời bàn trong quá trình soạn bộ quốc sử “Đại Việt sử ký toàn thư” như sau:
- Sử thần Lê Văn Hưu có 28 lời bàn
- Sử thần Phan Phù Tiên có 12 lời bàn
- Sử thần Ngô Sỹ Liên có 169 lời bàn
- Sử thần Vũ Quỳnh có 03 lời bàn
Từ những xuất lộ đầu tiên của bản tuyên ngôn qua lời tựa “Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên”. Những mâu thuẫn nảy sinh trong phương pháp soạn sử, mục đích viết sử và cách tiếp cận nguồn sử liệu do sử gia Lê trung hưng thực hiện, đã cấu thành sự “bất thường” khiến người đọc sử, nghiên cứu lịch sử, phê bình lịch sử về vương triều Mạc, không khỏi ngỡ ngàng và băn khoăn từ sự “tiền hậu bất nhất” của Phạm Công Trứ và nhóm biên soạn thực hiện trong tác phẩm sử học của họ.
Sử gia triều Nguyễn khi viết bộ quốc sử “Khâm định việt sử thông giám cương mục” đã đánh giá về sử thần Lê trung hưng như sau:
“Sử cũ soạn hồi cuối Lê, đều ra từ những tay khuyển ưng của họ Trịnh, lẽ nhiên là có nhiều điều kiêng kỵ đối với họ Trịnh. Đó thật là những trang sử nhơ bẩn, không thể tin được, nhưng vì nay không có bộ sử nào tốt hơn để có thể dựa vào mà sửa đổi lại, nên cương mục cứ phải theo tài liệu đáng ngờ mà truyền lại điều đáng ngờ để đợi đời sau đính chính cho”
[Việt sử thông giám cương mục – Lời phê, tr65, t14, NXB văn sử địa, 1959]
Dù lời phê trên không nằm trong các sự kiện lịch sử vương triều Mạc, nhưng cũng là một nỗi niềm gửi gắm cho đời sau của các sử gia triều Nguyễn, trước những tồn nghi của lịch sử mà nguyên nhân của nó ra đời từ những cây bút sử gia Lê trung hưng.
Câu hỏi từ phần một này: Lịch sử vương triều Mạc là lịch sử khách quan, hay lịch sử nhận thức được diễn giải đầu tiên ở đây. Chúng ta chưa thể có các điều kiện cần và đủ để kết luận được một cách chính xác hoàn toàn. Nhưng sau năm sự kiện lịch sử của nhà Mạc mà chúng tôi xin trình bày dưới đây, sẽ là những điều kiện tiên quyết để kết luận một cách đầy đủ, chính xác và khách quan cho bản chất câu hỏi của phần I này.
Phần II: Sự kiện số I
Trong những chuỗi sự kiện rất lớn từ lịch sử cổ, trung đại của Đại Việt, đọc sử nhà Mạc, chúng ta gặp ngay một sự kiện chưa từng xuất hiện trong các triều đại tiền nhiệm, nội dung của sự kiện này được tóm lược cô đọng trong vài chục từ sau:“Đăng Dung sợ nhà Minh đem quân sang hỏi tội, bèn lập mưu cắt đất dâng nhân dân hai châu Quy Thuận và hai hình người bằng vàng và bạc cùng là châu báu của lạ vật lạ. Vua Minh thu nhận, từ đấy nam bắc lại sai thống sứ đi lại”
[ĐVSKTT, q2, Tr606 – 607, NXB VHTT, 2004]
Từ nội dung ghi chép trên của sử, nguyên nhân dẫn tới sự kiện, diễn biến của sự kiện, kết quả của sự kiện đã được mô tả hoàn chỉnh:
– Nguyên nhân: Nhà Mạc lên ngôi sợ nhà Minh kéo quân sang hỏi tội.
– Diễn biến: Xuất phát từ diễn biến nội bộ Đại Việt, nhà Mạc đã dùng cách “cắt đất, dâng dân” làm vừa lòng nhà Minh trong hoàn cảnh trên.
– Kết quả: Sự kiện đã hoàn thành, nhà Mạc cắt đất hai châu Quy Thuận và dâng của cải cho nhà Minh.
Vua Minh tiếp nhận đất đai, nhân dân hai châu Quy Thuận, của cải mà nhà Mạc dâng nộp, từ đấy ngoại giao giữa hai nước được nối lại.
Đối với lịch sử cổ đại, trung đại thậm chí cận đại việc tìm ra chính xác những địa danh gắn liền với từng sự kiện lịch sử là rất khó khăn bởi nhiều lý do khác nhau. Trong nội dung mà sử ghi chép, địa danh “hai châu Quy Thuận” là mấu chốt quan trọng nhất trong sự kiện số I này, việc tìm ra chính xác hai địa danh Quy – Thuận sẽ là chìa khóa mở ra toàn bộ sự thật sự kiện số I.
Phân tích cấu trúc từ ngữ: “hai châu Quy – Thuận” được hiểu kĩ càng như sau:
Số lượng: 2 châu
Đơn vị hành chính: Châu
Địa danh: Châu Quy, châu Thuận
Từ sự trình bày trên của sử, ta có hai cách hiểu khác nhau về địa danh này như sau:
* Trường hợp thứ nhất: Địa danh Quy và Thuận là địa danh đơn từ
Nghĩa là: “hai châu quy thuận” đồng nghĩa với “hai châu: Châu Quy và châu Thuận”.
* Trường hợp thứ 2: Địa danh Quy và Thuận không phải đơn từ
Nghĩa là: “hai châu quy thuận” đồng nghĩa với
“hai châu: Châu Quy + (1,2 từ nào đó)
Châu Thuận + (1,2 từ nào đó)”
Trên thực tế, địa danh đơn từ xuất hiện từ cổ xưa còn tồn tại tới ngày nay nằm rải rác các địa phương trong cả nước như sau:
Ví dụ:
– “Kép”, “Vôi”, “Chũ”, “Thắng” vv…là những địa danh đơn từ tại Bắc Giang.
– “Lủ”, “Cót”, “Sốm”, “Săn” vv… là những địa danh đơn từ tại Hà Nội.
Tương tự như vậy địa danh có 3 từ :
“A Pa Chải” một địa danh thuộc tỉnh Điện Biên.
“Hoàng Su Phì” một địa danh tỉnh Hà Giang.
“Mù Căng Chải” một địa danh thuộc tỉnh Yên Bái
“Kon Ka Kinh” một địa danh tỉnh Gia Lai vv…
Từ những ví dụ thực tế trên, hai châu Quy Thuận do sử chép có khả năng rơi vào một trong hai trường hợp đã nêu. Thời gian sự kiện xảy ra do sử chép trôi qua gần 500 năm (1528), hai địa danh cần tìm hiểu có thể đã thay đổi, thậm chí đã bị xóa tên vì bị sát nhập vào Trung Hoa? Việc khảo cứu để tìm ra chính xác hai địa danh này là một việc không dễ, tuy vậy, công việc phân tích mổ xẻ sự kiện, phục hồi sự kiện sau này sẽ giúp cho việc tìm đúng, tìm chính xác hai địa danh này lần lượt từng bước được làm rõ. Một trong những yếu tố quan trọng cho quá trình phục hồi sự kiện thành công, phải kể tới những phê bình hai chiều của giới sử học nước nhà đối với sự kiện này, chúng tôi xin lần lượt trình bày những chính kiến đó ở phần sau đây.
Khi tìm hiểu lịch sử cổ đại, trung đại, cận đại của đất nước lẽ tất yếu cần tìm tới những đánh giá, phê bình lịch sử của các tác giả là những sử gia có chuyên môn sâu rộng trước kia và ngày nay. Họ là những cá nhân có năng lực dẫn hướng dư luận, khả năng bạch hóa sự kiện hoặc có những công trình khám phá gây tiếng vang toàn xã hội phản ánh trung thực một sự kiện lịch sử nào đó hay một giai đoạn lịch sử nhất định. Đối với sự kiện số I này của nhà Mạc cũng tương tự như vậy, những quan điểm hai chiều sẽ đóng góp vào quá trình bạch hóa lịch sử này.
Thứ nhất:
Đề cập tới vấn đề cắt đất hai châu Quy – Thuận của nhà Mạc từ sử cũ, các sử thần triều Nguyễn khi soạn bộ “Việt sử thông giám cương mục” đã có ý kiến trong lời cẩn án như sau:
“Lại xét: trong năm Mạc Minh Đức thứ 2, tức là năm Minh gia tĩnh thứ 7 (1528), sử cũ chép Đăng Dung sợ nhà Minh hỏi tội, bàn tính chuyện cắt đất dâng hai châu Quy, Thuận; Vua Minh thu nhận. Từ đó, Nam Bắc lại có sứ giả đi lại thông hiếu. Nhưng, nay tra cứu bản đồ nước ta thì có Quy Hóa châu và Thuận châu. Hai châu này hiện nay thuộc tỉnh Hưng Hóa. Trong Đại Thanh nhất thống chí tuy có chép châu Quy Thuận nguyên thuộc phủ Trấn An tỉnh Quảng Tây nhà Thanh đấy thật, nhưng hai châu mà sử cũ gọi là Quy, Thuận có lẽ tức là Quy Hóa và Thuận Châu đó thôi.
Lại xét Minh Sử thông giám ký sự:
Hồi năm Mạc đại chính thứ 9 (1538), Mạc Đăng Dung được tin quân Minh sang đánh, cả sợ, sai sứ xin hàng, nói dối là họ Lê không có người kế tự, cha con Đăng Dung có công với với nước được mọi người suy tôn; còn Đăng Dung sở dĩ không dâng được biểu chương cho sứ sang tiến cống là chỉ vì trước kia bị Trần Cung chiếm xứ Lạng Sơn làm nghẽn đường, đến sau lại giữ biên cương đóng cửa ải, không tiếp nhận. Việc này, từ năm Gia Tĩnh thứ 7 (1528) đến năm thứ 17 (1538) trải hàng 10 năm chưa từng có sứ đi thông hiếu, thế mà sử cũ, ở năm Gia Tĩnh thứ 7 , đã vội chép rằng:
“Đăng Dung tính chuyện cắt đất dâng nộp hai châu Quy Thuận, từ đó nam bắc lại cho sứ giả đi lại thông hiếu. Về việc này, những điểm sử cũ chép đó đều sai sự thực, nên nay rút bớt đi mà chép phụ vào đây để tham khảo”
[Việt sử thông giám cương mục, q14, tr1338 – 1339, NXB văn sử địa, 1959]
Đây là lần soạn sử với quy mô quốc gia do triều đình nhà Nguyễn quyết định. Các sử thần triều đình Nguyễn đã quyết đoán không ghi chép sự kiện cắt đất hai châu Quy Thuận vào từng mục lịch sử nhà Mạc trong “Việt sử thông giám cương mục”. Mặc dù những lập luận, lý giải của các sử gia dựa hẳn vào hai bộ sách: “Đại Thanh nhất thống chí” và “Minh sử thông giám ký sự” là không rõ ràng và thuyết phục.
Thứ hai:
Năm 1968 khi biên dịch, hiệu đính cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư” cố giáo sư Đào Duy Anh đã có những quan điểm về sự kiện I này như sau:
“Hai châu Quy Thuận thì nhà Tống đã chiếm từ thời Lý nước ta rồi”
[Chú thích, ĐVSKTT, T4, Tr347, NXB KHXH, 1968]
Dòng chữ chú thích này được in tại Lề cuối trang 347 cuốn sử, mười lăm từ cố giáo sư Đào Duy Anh chú thích rất cô đọng. Có lẽ rất bổ ích cho những nhà nghiên cứu lịch sử nhà Mạc, thậm chí lớp học trò của ông như cố giáo sư Trần Quốc Vượng, hoặc sau này là PGS-TS. Đinh Khắc Thuân dựa vào như một “bảo đảm” khi đề cập tới sự kiện I trong các trang viết về lịch sử nhà Mạc của họ.
Riêng đối với những người đọc sử, các sinh viên chuyên ngành sử rất khó có thể tiếp cận các nguồn sử liệu để hiểu rõ sự cô đọng 15 từ mà cố giáo sư Đào Duy Anh đã viết. Lý do của nó là: Quốc sử Đại Việt không hề ghi chép bất cứ một tình tiết nào liên quan tới hai châu Quy Thuận bị mất tại kỳ nhà Lý này. Tương tự như vậy, cũng chưa có bất kỳ một công trình khả dĩ nào từ các nhà sử học, người nghiên cứu lịch sử, công phu tìm tòi để trả lại lịch sử khách quan sự kiện này một cách kỹ càng, dễ hiểu. Chính vì vậy, người đọc sử dựa vào đâu để hiểu nổi 15 từ trên của một giáo sư đầu ngành sử đương đại.
Thứ ba:
25 năm sau (1968 – 1993) khi hiệu đính cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư” bản in nội các quan bản mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) do NXB KHXH ấn hành năm 1993, tới sự kiện I này giáo sư sử học Hà Văn Tấn đã chú thích như sau:
“Về việc nộp đất, không thấy Minh sử ghi lại. Hai châu Quy Thuận đã bị nhà Tống chiếm từ đời Lý, đó là châu Quy Hóa và Thuận An. Hai châu này sau trở thành Châu Quy – Thuận tỉnh Quảng Tây”
[Chú thích_ ĐVSKTT, Q3, Tr112, NXB KHXH 1993]
Từ lời chú thích năm 1968 của cố giáo sư Đào Duy Anh. Một phần tư thế kỷ sau, chú thích tiếp theo của giáo sư sử học Hà Văn Tấn. Sự kiện lịch sử số I này được đẩy lên một mốc mới: Hai châu Quy – Thuận từ sử chép có tên Quy Hóa và Thuận An.
Thứ tư:
Tại hội thảo cấp quốc gia vương triều Mạc năm 1994 ở Hải Phòng, cố giáo sư sử học Trần Quốc Vượng đã đi sâu hơn vào sự kiện I trong bản tham luận của ông. Tuy nhiên cố giáo sư cũng thừa nhận: những lời ông soạn tại bài tham luận dựa vào nghiên cứu từ thầy ông, cố giáo sư Đào Duy Anh:
“Toàn thư chép: Mậu Tý (1528) Đăng Dung sợ nhà Minh đem quân sang hỏi tội bèn lập mưu cắt đất dâng nhân dân hai châu Quy Thuận” Minh sử không hề chép chuyện này và từ năm 1968 thầy tôi giáo sư Đào Duy Anh khi hiệu đính bản dịch “Toàn thư” đã chú thích về việc này như sau: “hai châu Quy Thuận thì nhà Tống đã chiếm từ thời Lý nước ta rồi” đó là hai châu Quy Hóa và Thuận An do hai thủ lĩnh Nùng Trí Hội và Nùng Tôn Đán nộp cho nhà Tống về sau trở thành châu Quy Thuận và châu Quy Dịn trong khẩu ngữ Tày Nùng của tỉnh Quảng Tây, vậy có liên quan gì đến nhà Mạc”
[Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử tr34, viện thông tin XB, 1996]
Lần thứ tư này, sự kiện I được cố giáo sư Trần Quốc Vượng bổ sung chi tiết hơn. Hai thủ lĩnh địa phương nộp đất cho nhà Tống là Nùng Trí Hội và Nùng Tôn Đán. Người đọc sử, người ham thích lịch sử đất nước không thể tìm được bất cứ một thông tin nào từ quốc sử Đại Việt viết về diễn biến sự kiện, con người cụ thể tham gia sự kiện mà các giáo sư sử học nêu ra ở trên.
Thứ năm:
Trong cuốn sách “Lịch sử triều Mạc qua thư tịch và văn bia” xuất bản năm 2001, vốn là luận án tiến sĩ của phó giáo sư – tiến sĩ Đinh Khắc Thuân (chức danh ngày nay) bảo vệ tại Paris – Pháp năm 2000, ông đã viết về sự kiện I này như sau:
“Về sự kiện được gọi là cắt đất năm 1528, chỉ duy nhất được nêu trong Đại Việt sử ký Toàn thư rằng: “sợ nhà Minh hỏi tội, Đăng Dung bèn lập mưu cắt đất dâng nhân dân hai châu Quy Thuận và hai hình người bằng vàng bạc, cùng là châu báu, của lạ vật lạ…” giải thích về sự kiện này tác giả của cương mục nhận thấy: “tỉnh Hưng Hóa nước ta hiện nay có hai châu Quy và Thuận” [Cương mục sách đã dẫn, t2, tr116]. Ghi chép trên của toàn thư là hoàn toàn nhầm lẫn và sự giải thích của cương mục lại cũng không rõ ràng. Thực tế năm 1528 không hề xảy ra sự kiện dâng hai châu Quy Thuận cho nhà Minh. Bởi hai châu này theo cố giáo sư Đào Duy Anh thì: “Nhà Tống đã chiếm từ thời Lý nước ta rồi”. Việc nộp đất ở vùng này chỉ diễn ra vào thời Lý năm 1057 và năm 1073 với 2 động Vật Dương và Vật Ác mà thôi. Thực tế, đất Quy Thuận vốn là đất của nhà Lý đã bị nhập vào nhà Tống từ thế kỷ XI như nhận xét của Hà Phúc Trường nhà nghiên cứu Trung Quốc khi viết về địa chí phủ Quy Thuận năm 1848 là: “Quy Thuận vốn thuộc An Nam”. Vì vậy, sự kiện chép trong toàn thư về việc Mạc Đăng Dung cắt 2 châu Quy Thuận cho nhà Minh là sự nhầm lẫn đáng tiếc”
[Lịch sử triều Mạc qua thư tịch và văn bia, tr82 – 83, trung tâm KHXH và nhân văn quốc gia, viện nghiên cứu Hán nôm, NXB KHXH 2001]
Trên đây là năm ý kiến phản bác từ các sử gia cận đại và đương đại đối với sự kiện lịch sử số I. Tuy nhiên từ ngữ phân tích sự kiện lịch sử này quá cô đọng, kiệm chữ, dù có cố gắng tạo ra một kết nối, nối liền năm lời dẫn trên, người đọc sử cũng không thể tìm được tiếng nói chung với các nhà sử học đã viết về sự kiện lịch sử số I.
Tại hội thảo VTM năm 1994, phó giáo sư – tiến sĩ sử học Đỗ Văn Ninh đã có ý kiến trong tham luận tại đây: “Thế nhưng nhà Mạc cũng làm nhiều việc mà người trong nước không đồng lòng. Mới lên ngôi hai năm, Mạc Đăng Dung đã cắt đất hai châu Quy Thuận dâng nhà Minh, kèm theo người vàng người bạc, cùng nhiều châu báu mong nhà Minh che chở”
[Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, tr303, viện thông tin XB, 1996]
Tại phần trên chúng tôi đã chép ra sáu dẫn chứng hai chiều của các nhà sử học cận đại, đương đại đánh giá sự kiện I. Trong đó phải kể tới sự quyết đoán không biên chép theo sử cũ sự kiện trong từng mục lịch sử nhà Mạc mà các tác giả “Cương mục” thực hiện. Quá trình hình thành 6 dẫn chứng trên là gần 200 năm, kể từ khi các tác giả “Cương mục” soạn sử đến nay. Chúng tôi không dẫn ra những ý kiến hai chiều từ các học giả không chuyên về sử học vì những quan điểm này rất đa dạng và rất phổ biến ngoài xã hội.
Tuy nhiên với những gì đã dẫn ra ở trên, bản chất khách quan của sự kiện dần hé lộ, mong muốn ghép nối các mảng dữ liệu rời rạc này từ quá khứ là rất khó khăn đối với người đọc sử. Thậm chí các sinh viên khoa học xã hội, các thầy cô dạy sử các cấp phổ thông, lý do quốc sử hay các nguồn sử liệu khác không cung cấp những dữ liệu lịch sử này. Khoảng cách nhận thức ngày càng giãn rộng ra nguyên nhân cơ bản là không có một công trình nghiên cứu nào đủ sức giải quyết một cách bài bản, thuyết phục, dễ hiểu trả lại chân lý khách quan sự kiện I. Như vậy, tác dụng thật sự từ sáu lần dẫn trên rất khiêm tốn đối với xã hội và nó quay trở lại với chính các tác giả sử học. Chính vì vậy, chúng tôi cố gắng đưa ra một cách nhìn mới, nghiên cứu mới thể hiện đầy đủ, nghiêm túc, minh bạch để đánh đổ hoàn toàn “lịch sử nhận thức” sự kiện lịch sử số I này.
Khi đọc lịch sử nhà Mạc, nghiên cứu sự kiện này, người đọc sử, nghiên cứu lịch sử nếu chỉ sử dụng nguồn sử liệu trong cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Việt sử thông giám cương mục”. Hoặc các tác phẩm lịch sử do từng cá nhân biên soạn, sẽ không thể nghiên cứu nổi tính phức tạp và bản chất của sự kiện, đồng thời khó nhận ra chân dung “lịch sử nhận thức” của sự kiện lịch sử số I.
Lý do là:
* “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Việt sử thông giám cương mục” và các loại sách sử khác, sách dư địa chí các đời không ghi chép bất kỳ một thông tin nào dẫn tới những kết luận mà các tác giả sử học đem lại (đã dẫn).
* Trong tất cả các giáo trình giảng dạy lịch sử trong các trường đại học, các cấp phổ thông không có bất kỳ một bài giảng nào khơi gợi hay lập luận phản bác sự kiện I mà sử cũ chép.
* Ở ngoài xã hội người đọc sử có thể tham khảo, suy nghĩ về lập luận từ 6 dẫn chứng đã nêu của giới sử học nước nhà.
Nhưng:
– Sự kiện mất đất tại kỷ nhà Lý “Đại Việt sử ký toàn thư” không ghi chép.
– Những nhân vật: Nùng Trí Hội, Nùng Tôn Đán “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Việt sử thông giám cương mục” và các loại sách vở liên quan không ghi chép hành trạng.
– Các địa danh liên quan như động Vật Dương động Vật Ác có liên quan gì tới 2 châu Quy Thuận, tài liệu lịch sử nào nói tới?
– Tại sao sự kiện mất đất từ kỷ nhà Lý cách nhà Mạc 500 năm mà nhà Mạc lại liên đới? vv…
Có rất nhiều câu hỏi phải trả lời từ những vấn đề được nêu ra ở trên, đồng thời hiện nay nhiều người trong giới sử đã từng công nhận sử cũ chép sự kiện I này là đúng! Đứng trước một vấn đề phức tạp tồn tại lâu dài như vậy, chúng tôi cần phải thực hiện như thế nào để hoàn thành trách nhiệm trả lại sự thật sự kiện lịch sử số I và sau đây là những công việc đó được đưa ra.
Phương pháp lựa chọn là: Lấy lịch sử nhà Mạc là trọng tâm, sử dụng tư liệu dư địa chí trước nhà Mạc, sau nhà Mạc làm nền tảng để vận dụng linh hoạt lịch sử và địa lý học, nhằm tìm ra những mối tương tác liên quan giữa địa lý và lịch sử. Chúng ta thấy rằng: Địa lý và lịch sử là hai môn khoa học xã hội có liên quan mật thiết với nhau, sử nằm trong địa, địa sẵn có trong sử, người ta gọi là địa lý học lịch sử. Cách thức vận dụng tư liệu các nguồn dư địa chí cùng tư liệu lịch sử một cách nhuần nhuyễn sẽ là chìa khóa mở ra cánh cửa bí ẩn của lịch sử cần quan tâm. Do vậy, cần thực hiện các bước phân tích tư liệu dư địa chí chia ra bởi ba giai đoạn như sau:
* Sách dư địa chí ra đời trước nhà Mạc(trước năm 1527)
* Sách dư địa chí ra đời sau nhà Mạc(sau năm 1527)
* Sách dư địa chí cận đại, bản đồ hành chính nước CHXHCNVN.
Cũng xin lưu ý rằng: Vùng đất hai châu Quy Thuận đang khảo cứu, tất yếu phải nằm trong phạm vi giáp ranh biên giới giữa hai quốc gia Đại Việt và Trung Hoa. Vùng đất này không thể nằm quá sâu trong lãnh thổ Đại Việt, chính vì vậy, phạm vi khảo cứu cần nhắm tới sẽ nằm trên vĩ tuyến 20 hất ngược lên biên giới phía bắc nước ta (VD: Địa danh Thuận Hóa cách biên giới phía bắc 1000km sẽ không nằm trong đối tượng khảo cứu này).
a, Theo sách “Đường thư địa lý chí”
Sách này xuất hiện cách ngày nay chừng 1400 năm (nhà Đường 618 – 907) được biên dịch bởi Nguyễn Văn Siêu và chép tại mục “Địa lý tiền biên” trong tác phẩm “Phương đình dư địa chí” của ông.
“Đường thư dư địa chí” chép:
“Quy hóa châu: lĩnh 4 huyện là: Yên Lập, Văn Bàn, Văn Chấn, Thủy Vĩ”
[Đường thư dư địa chí, địa lý tiền biên, PĐDĐC, tr32, NXB TDSG 1960]
tìm tiếp “Đường thư địa lý chí” xuất hiện địa danh Thuận Châu như sau:
“An Thuận (năm thứ 9 niên hiệu Vũ Đức) đặt ra Thuận Châu và 3 huyện: Đông Hà… Xương Bình Hà, năm đầu niên hiệu Chính Quán, châu bỏ, bớt 3 huyện sáp vào An Thuận”
[Đường thư địa lý chí, Địa lý tiền biên, Phương đình dư địa chí, Tr26, NXB Tự do Sài Gòn, 1960]
Bám vào tư liệu do Nguyễn Văn Siêu cung cấp từ “Đường thư địa lý chí” đã thấy xuất hiện hai 2 địa danh: Quy Hóa, Thuận Châu
Hai địa danh cổ này xuất hiện trước năm 1527 chừng 900 năm, từ đây chúng ta cũng biết một số địa danh cổ còn giữ mãi tới ngày nay tại các tỉnh phía bắc:
– Huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ.
– Huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
Qua dẫn chứng trên, trước nhà Mạc gần 1000 năm, lãnh thổ Đại Việt đã có hai địa danh: Quy Hóa và Thuận Châu.
b, Sách “An Nam chí lược”
Sách do Lê Tắc soạn năm 1333 đời Trần(trước năm 1527 gần 200 năm).
“An Nam chí lược” bổ sung cho “Đường Thư Địa Lý Chí” như sau: “Châu Thuận An(An Thuận) đời Đường gọi là Thuận Châu”
[An Nam chí lược, tổng tập dư địa chí, quyển 1, tr124, NXB thanh niên, 2012]
Tại mục “Lịch đại khiển sư” Lê Tắc chép về địa danh Quy Hóa như sau:
“Mùa đông năm ấy, đại binh của Trấn Nam vương đến biên cảnh, bắt Văn Hàn làm hướng đạo phá được cửa ải Nội Bàng… Năm sau Triều đình (nhà Nguyên)” cho Văn Hàn làm trung thuận đại phu Quy Hóa giang lộ”
[An Nam chí lược, tổng tập dư địa chí, quyển 1, tr404, NXB thanh niên, 2012]
Qua hai nguồn tư liệu “Đường thư dư địa chí” và “An Nam chí lược” cung cấp, đã xuất hiện 2 địa danh: Thuận Châu, Quy Hóa thuộc Đại Việt, trước khi nhà Mạc ra đời hàng ngàn năm.
Hai địa danh này nằm ngang hoặc trên vĩ tuyến 20 nước ta, các tư liệu dư địa chí trên đây là những dẫn chứng rời rạc, vụn vặt, sau đây là những dẫn chứng rõ ràng cụ thể hơn từ các nguồn tư liệu dư địa chí khác nhau.
c, “Ức trai di tập – dư địa chí”
Sách do Nguyễn Trãi soạn năm 1435 (trước năm 1527 gần 100 năm) hai địa danh cần tìm hiểu được ghi chép như sau:
“XXVII. Thao, Lịch ở Hưng Hóa.
Thao là tên sông, Lịch là tên núi. Sông Thao là ngọn sông Hoàng Thủy cũng 500 năm, một lần nước trong. Hưng Hóa xưa là bộ Tân Hưng ở thời Hán là Nam Trung. Mạnh Hoạch chống cự với Khổng Minh ở đấy, phía tây thông với Vân Nam, phía đông tiếp giáp Sơn Tây, phía bắc và phía nam tiếp giáp Tuyên, Nghệ. Có 3 bộ phủ, 4 huyện, 17 châu, 31 làng xã, 155 động, 137 sách, 8 trang. Đấy là phiên giới thứ hai ở phía Tây vậy.”
Cẩn án:
Phủ Quy Hóa có 3 huyện, 2 châu, 31 xã, 54 động:
* Huyện Trấn Yên có 27 xã, 7 trang, 2 động, 2 sách
* Huyện Yên Khâu (cũng gọi là Yên Lập) có 2 xã, 1 trang, 1 động, 18 châu
* Huyện Văn Chấn có 2 xã, 80 sách
* Châu Văn Bàn có 40 động
* Châu Thủy Vỹ có 11 động (tiếp nối Vân Nam)
Phủ Gia Hưng: (thời Hồ đổi làm Thiệu Hưng, triều Lê lại theo tên cũ) có 1 huyện, 5 châu, 42 động.
* Huyện Thanh Xuyên có 1 thôn, 2 động, 34 sách
* Châu Phù Hoa có 3 động
* Châu Mộc Châu có 20 động, 3 sách
* Châu Việt Châu có 3 động
* Châu Mai Châu có 3 động
* Châu Thuận Châu có 10 động…”
[Ức trai di tập _ dư địa chí, Tr36, NXB Sử học 1960]
Dư địa chí của Nguyễn Trãi cung cấp cho ta biết rất cụ thể 2 địa danh:
Quy Hóa đơn vị hành chính là Phủ
Thuận Châu đơn vị hành chính là Châu, 2 địa danh này thuộc Hưng Hóa – Đại Việt.
d, Sách “Hồng Đức bản đồ”
“Hồng Đức bản đồ” được triều đình vua Lê Thánh Tông lập năm (1467 – 1469), tại mục: thừa tuyên Hưng Hóa sách chép:
“I. Phủ Gia Hưng: 1 huyện, 5 châu”
- Huyện Thanh Xuyên: 36 xã
- Châu Phù Hoa: 4 động
- Châu Mộc: 21 động, 3 sách
- Châu Mai: 4 động
- Châu Việt: 4 động
- Châu Thuận (Thuận Châu): 9 động
- Phủ Quy Hóa: 3 huyện, 2 châu
- Huyện Trấn An: 44 xã
- Huyện An (Yên) Lập: 6 xã, 17 sách, 4 động
- Huyện Văn Chấn: 33 trang, 7 sách, 1 động
- Châu Văn Bàn: 39 động
- Châu thủy Vĩ: 11 động…”
Từ trên, qua 4 cuốn sách dư địa chí xuất hiện trước nhà Mạc
- Đường thư dư địa chí
- An Nam chí lược
- Dư địa chí – Nguyễn Trãi
- Hồng Đức bản đồ
a, Cuốn “Kiến văn tiểu lục” tại quyển 6, mục phong vực bờ cõi, Lê Quý Đôn chép về Hưng Hóa như sau:
“Hưng Hóa thời nhà Trần đặt 3 trấn: Tuyên Quang, Tuy Hóa, Đà Giang… đến giữa năm Quang Thuận triều Thánh Tông mới dặt Hưng Hóa xứ thừa tuyên” quản lý 3 huyện, 2 châu thuộc phủ Quy Hóa 2 huyện 5 châu”
[Kiến văn tiểu lục, phong vực, tr342 – 343, viện sử học XB năm 2007]
Chép về Thuận Châu, “Kiến văn tiểu lục” cho biết:
“Một dải sông Đà có 8 châu… Châu Thuận (Thuận Châu)” thổ âm gọi là Mường muỗi, đường đi 12 ngày… động Mường Lãm thuộc Thuận Châu đường đi 13 ngày”
[Kiến văn tiểu lục, phong vực, tr358 – 350, viện sử học XB năm 2007]
b, Sách “Đại Nam nhất thống chí”
Sách do triều đình nhà Nguyễn biên soạn năm 1884, sách chép về 2 địa danh Quy Hóa – Thuận Châu tại mục tỉnh Hưng Hóa như sau:
“Thuận Châu (Châu Thuận)” từ phía Đông đến phía Tây cách nhau 138 dặm, từ phía Nam đến phía Bắc cách nhau 142 dặm, phía Đông đến địa giới châu Sơn La 55 dặm, phía Tây đến địa giới châu Tuần giáo 83 dặm, phía Nam đến địa giới châu Mai Sơn 83 dặm, phía Bắc đến địa giới Châu Quỳnh Nhai 59 dặm. Đời Trần là đạo Đà Giang, đầu đời Lê mới đặt tên châu này, nguyên có 9 động. Sau đó thấy địa giới sâu rộng bao la bèn cắt 3 động Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo đặt làm 3 châu, còn lại 6 động, sau gộp lại thành 5 động, đặt thổ từ phụ đạo, họ Bạc được nối đời quản trị. Năm Gia Long triều ta vẫn để như trước. Năm Minh Mạng thứ 15 (1834) đổi động thành xã, đặt thổ tri châu như cũ, thuộc phủ quản hạt, nay châu Lĩnh coi 5 xã…
*Phủ Quy Hóa: phủ lị chưa dựng, số dặm đường từ phía Đông đến phía Tây, từ phía Nam đến phía Bắc chưa được rõ. Phủ này là đất châu Đăng đời Lý, cuối đời Trần đặt Trấn Quy Hóa. Thời thuộc Minh đổi là châu, năm Thuận Thiên nhà Lê đổi là Lộ, năm Hồng Đức đổi là Phủ. Bản triều vẫn để như trước lãnh 3 huyện, 2 châu.
* Huyện Yên Lập: từ phía Đông đến phía Tây cách nhau 105 dặm, từ phía Nam đến phía Bắc cách nhau 181 dặm, phía Đông đến địa giới huyện Cẩm Khê, tỉnh Sơn Tây 7 dặm, phía Nam đến địa giới huyện Thanh Sơn 101 dặm, phía Bắc đến địa giới huyện Hạ Hòa tỉnh Sơn Tây 80 dặm. Huyện này vốn là đất Châu Đăng đời Lý, từ đời Lê về trước đã đặt tên huyện. Thổ tù họ Nguyễn và họ Đinh chia nhau quản trị năm Gia Long triều ta vẫn để như trước. Năm Minh Mạng thứ 17 (1836) bắt đầu đặt lưu quan, thuộc phủ Quy Hóa thống hạt, đổi sách thành xã, lại đặt tên tổng, thống lãnh 5 tổng, 21 xã.
* Huyện Văn Chấn: từ phía Đông đến phía Tây cách nhau 184 dặm, từ phía Nam đến phía Bắc cách nhau 119 dặm, phía Đông đến địa giới huyện Hạ Hòa tỉnh Sơn Tây 22 dặm, phía Tây đến địa giới châu Quỳnh Nhai 142 dặm, phía Nam đến địa giới châu Phù Yên 111 dặm, phía Bắc đến huyện Trấn Yên 38 dặm. Thổ tù phù đạo là họ Hà và họ Lê thế tập, sau người khác là họ Sầm (người Thanh) và họ Cầm nối đời cai quản. Năm Gia Long vẫn để như trước, năm Minh Mạng thứ 17 (1836) bắt đầu đặt lưu quan thống thuộc. Phủ Quy Hóa và đổi sách thành xã lại đặt tên tổng lãnh 4 tổng 11 xã…
* Huyện Trấn Yên: từ phía Đông đến phía Tây cách nhau 56 dặm, phía Đông đến địa giới huyện Hạ Hòa tỉnh Sơn Tây 14 dặm, phía Tây đến địa giới huyện Văn Chấn 16 dặm, phía Nam đến địa giới… , phía Bắc đến địa giới Mai Châu tỉnh Tuyên Quang 49 dặm. Huyện này nguyên là đất Châu Đăng đời Lý từ đời Lê về trước đã đặt tên huyện Trấn Yên. Trước kia thổ tù họ Nguyễn Đình nối đời cai quản. Năm Gia Long vẫn để như trước, Năm Minh Mạng thứ 17 (1836) bắt đầu dặt lưu quan, thuộc phủ Quy Hóa đổi trang thành xã và chia đặt các tên tổng, lĩnh 4 tổng, 30 xã…
* Châu Văn Bàn: từ phía Đông đến phía Tây cách nhau 147 dặm, từ phía Nam đến phía Bắc 84 dặm. Phía Đông đến địa giới huyện Trấn Yên 46 dặm, phía Tây đến địa giới chiêu tấn 101 dặm, phía Nam đến địa giới huyện Trấn Yên 25 dặm, phía Bắc đến địa giới châu Lục Yên tỉnh Tuyên Quang 55 dặm. Châu này nguyên là đất Châu Đăng đời Lý từ đời Trần về trước đã đặt tên là huyện Văn Bàn, thời thuộc Minh để như trước, năm Hồng Đức đời Lê đổi huyện thành châu, cho thổ từ phụ đạo họ Điêu và họ Lương được chia nhau quản lĩnh. Năm Gia Long triều ta vẫn để như trước. Năm Minh Mạng thứ 4 (1823), Nguyễn Bảo Cầm được làm thổ quan tri phủ. Năm thứ 5 (1824) Sầm Nhân Tráng (Nguyễn giữ đồn Trấn Hà) được làm tri châu. Năm thứ 19 (1838) bắt đầu đặt lưu quan, thuộc Phủ Quy Hóa, đổi động thành xã và đặt các tổng, hiện lĩnh 2 tổng, 8 xã và 1 trại…
* Châu Thủy Vĩ: từ phía Đông đến phía Tây cách nhau 209 dặm, từ phía Nam đến phía Bắc cách nhau 177 dặm, phía Đông đến địa giới huyện Vị Xuyên tỉnh Tuyên Quang 83 dặm, phía Tây đến địa giới châu Chiêu Tấn 126 dặm, phía Nam đến địa giới Châu Văn Bàn 166 dặm, phía Bắc đến địa giới huyện Văn Sơn phủ khai hóa nước Thanh 11 dặm.
Châu này nguyên là đất Châu Đăng đời Lý từ đời Trần về trước đã đặt tên là huyện Thủy Vĩ, thời thuộc Minh để như trước, năm Hồng Đức đời Lê đổi huyện thành châu, đặt thổ tù phụ đạo cho họ Đèo và họ Lương triều ta vẫn để như trước, năm Minh Mạng thứ 4 (1823) Nguyễn Bảo Cầm làm thổ quan tri phủ, năm thứ 5 (1824) dùng Sầm Nhân Tráng người châu Chiêu Tấn được kiêm quản. Năm thứ 19 (1838) bắt đầu đặt lưu quan đổi động thành xã, đặt tên tổng, lĩnh 2 tổng, 8 xã, 1 trại, 2 phố và 1 vạn”
[Đại Nam nhất thống chí, q2, tr1519 – 1524, NXB lao động, 2012]
“Đại Nam nhất thống chí” đã cung cấp chi tiết châu Thuận Châu và phủ Quy Hóa mà chúng ta đang quan tâm. Đồng thời cũng cho biết việc thay đổi đơn vị hành chính: châu, trấn, lộ, phủ, thừa tuyên tùng giai đoạn lịch sử trước đây. Cũng xin lưu ý rằng: đến năm Minh Mạng thứ 19 (1838) hình thái quản lý cấp trung ương (lưu quan) mới được áp dụng tại các địa phương này.
c, Sách “Sử học bị khảo”
Do Đặng Xuân Bảng soạn năm 1886, tại mục bắc kỳ 13 tỉnh ông viết:
“Thuận Châu (vốn là mường Lý)” đời Lê trung hưng lấy đất châu này đặt thêm châu là: Mai Sơn, Sơn La, Tuần giáo.
– Mai Sơn: vốn là động Mai Sơn ở Thuận Châu đời Lê chia ra đặt thêm châu này.
– Sơn La vốn là động Sơn La ở Mộc Châu đời Lê chia ra đặt thêm châu này.
Phủ Quy Hóa: (đời Trần là trấn Quy Hóa hồi thuộc Minh đổi làm châu, đời Lê thăng làm phủ) có 3 huyện là: – Yên Lập (nhà Trần đặt)
– Văn Chấn (nhà Trần đặt)
– Trấn Yên (nhà Trần đặt)”
[Sử học bị khảo, q3, tr433, viện sử học, NXB VHTT, 1997]
d, Sách “Phương đình dư địa chí”
Do Nguyễn Văn Siêu soạn năm 1900, chép về Quy Hóa – Thuận Châu như sau:
“…Hưng Hóa thừa tuyên: 3 phủ, 4 huyện, 17 châu.
Thuận Châu: 4 động…
Quy Hóa: 3 huyện, 2 châu
+ Yên Lập huyện: 6 xã, 17 sách, 4 động
+ Trấn An huyện: 23 động, 1 châu
+ Văn Bàn châu: 39 động
+ Thủy Vĩ châu: 11 động”
[Phương đình dư địa chí, tr101, NXB tự do SG,1960]
Qua 4 cuốn sách dư địa chí được soạn sau năm 1527 vừa dẫn ở trên gồm:
– Kiến văn tiểu lục
– Đại Nam nhất thống chí
– Sử học bị khảo
– Phương đình dư địa chí
Hai địa danh Quy Hóa – Thuận Châu thuộc Hưng Hóa Đại Việt được chép rất cụ thể, rõ ràng, phạm vị địa giới, tên gọi, đơn vị hành chính theo từng giai đoạn lịch sử trước đây. Đồng thời cung cấp tính liên tục qua các đời: Đinh – Lê Đại Hành – Lý – Trần – Hồ – thuộc Minh – Lê – Mạc – Lê trung hưng – Nguyễn.
Nhằm làm rõ tính liên tục không bị biến động từ các sự kiện lịch sử của 2 vùng đất này, chúng tôi xin cung cấp một số sách địa lý ra đời thời thuộc Pháp và bản đồ hành chính nước CHXHCNVN ngày nay.
a, Sách “Dư địa chí các tỉnh bắc kì”
Do Đỗ Đình Nghiêm, Ngô Vi Liễn, Phạm Văn Thư soạn năm 1924 chép các tỉnh liên quan đến 2 châu Quy – Thuận như sau:
– “Tỉnh Sơn La: vị trí và diện tích: Sơn La bắc giáp Yên Bái, Nam giáp Thanh Hóa (Trung kì)” và tỉnh Sầm Nưa (Lào), tây giáp Lai Châu đông giáp Phú Thọ và Hòa Bình… Tỉnh Sơn La chia làm 6 châu: Châu Sơn La, Yên Châu, Thuận Châu, Mai Sơn , Mộc Châu, Phú Yên
[Tổng tập dư địa chí, q4, phương chí, tr283 – 284, NXB thanh niên, 2012]
– “Tỉnh Yên Bái”; vị trí và diện tích: tây giáp Sơn La, bắc giáp Lào Cai, đông bắc giáp Hà Giang, đông giáp Tuyên Quang tỉnh chia làm:
+ 1 huyện Trấn Yên
+ 4 châu: Văn Bàn, Văn Chấn, Lục Yên, Than Uyên.”
[Tổng tập dư địa chí, q4, phương chí, tr301 – 303, NXB thanh niên, 2012]
b, Sách Phú Thọ tỉnh địa chí:
Do Phạm Xuân Độ soạn năm 1939, tại mục tổng thuyết chép:
“Đến thời hậu Lê, phía bắc Phú Thọ ngày nay thuộc đạo Hưng Hóa, phía nam hợp với Sơn Tây thành đạo Quốc Oai. Những hạt vốn có là: Yên Lập vẫn theo tên cũ…”
[Tổng tập dư địa chí, q4, phương chí, tr301 – 303, NXB thanh niên, 2012]
c, Bản đồ hành chính nước CHXHCNVN hiện nay
Tra cứu trên bản đồ hành chính nước CHXHCNVN hiện nay, 2 địa danh Quy Hóa – Thuận Châu thuộc trấn Hưng Hóa xưa bao gồm.
* Phủ Quy Hóa là một vùng đất rộng lớn của đất nước
– Toàn bộ tỉnh Phú Thọ hiện nay
– Toàn bộ tỉnh Yên Bái hiện nay
– Một phần lớn tỉnh Lào Cai
Chúng ta có thể tưởng tượng vùng đất phủ Quy Hóa này giống như một quả đào tiên, cuống quả là cực bắc (châu Thủy Vĩ) giáp với Vân Nam Trung Quốc, còn quả đào là các tỉnh nói trên.
Ngày nay các địa danh tối cổ như:
– Yên (An) Lập: Tỉnh Phú Thọ
– Văn Chấn: Tỉnh Yên Bái
– Hạ Hòa: Tỉnh Phú Thọ
– Trấn Yên: Tỉnh Yên Bái
– Thanh Sơn: Tỉnh Phú Thọ
Vẫn tồn tại tới ngày nay.
* Châu Thuận Châu: là một vùng đất rất rộng lớn của đất nước bao gồm:
+ Mai Châu (nay thuộc tỉnh Hòa Bình)
+ Toàn bộ tỉnh Sơn La, một phần tỉnh Điện Biên, ngày nay vẫn còn huyện mang tên THUẬN CHÂU tại Sơn La.
Đến đây, chúng ta nhận thấy rằng vùng đất đang khảo cứu luôn luôn thuộc sở hữu của Đại Việt, nó mang tính liên tục, xuyên suốt các giai đoạn lịch sử khác nhau của đất nước từ: Đinh – Lê Đại Hành – Lý – Trần – Hồ – Lê – Mạc – Lê trung hưng – Nguyễn – nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ngày nay.
Vùng đất Quy Hóa – Thuận Châu thuộc thừa tuyên Hưng Hóa Đại Việt không gặp bất cứ biến động nào từ yếu tố chính trị các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Tiếp tục tìm kiếm trong 10 đầu sách dư địa chí trên không thấy xuất hiện bất cứ địa danh nào có từ đầu là “Quy” và “Thuận” nữa, từ đó có thể kết luận vấn đề này như sau:
TIỂU KẾT LUẬN:
Bằng phương pháp loại trừ, chúng tôi khẳng định chính xác rằng:
Hai Châu có từ đầu là Quy và Thuận tức Quy Hóa và Thuận Châu thuộc Hưng Hóa Đại Việt không liên quan tới sự kiện I mà các sử gia Lê trung hưng chép trong lịch sử vương triều Mạc.
Từ việc không tìm ra bất cứ hai địa danh có từ đầu “Quy” và “Thuận” tiếp theo nữa ngoài Quy Hóa, Thuận Châu thuộc Hưng Hóa từ nguồn sách dư địa chí cổ. Việc nghiên cứu sự thật lịch sử hai châu Quy – Thuận do sử chép dường như bế tắc hoàn toàn, nếu chúng ta không quay trở lại với chính quốc sử Đại Việt.
Đọc “Đại việt sử ký toàn thư” kỷ nhà Lý thấy xuất hiện một sự kiện như sau:
“Nhà Tống đem Thuận Châu trả cho ta”
[Đại Việt sử ký toàn thư, t1, tr332, NXB VHTT 2004]
Trong khi đó ở trên, chúng tôi vừa kết luận rằng: Quy Hóa – Thuận Châu thuộc Hưng Hóa Đại Việt không liên quan tới sự kiện (I). Vậy mà quốc sử kỷ nhà Lý lại chép:
“Nhà Tống đem Thuận Châu trả cho ta”, chính vì lý do ấy, cần làm rõ “Thuận Châu” này là địa danh nào, sự kiện lịch sử của nó diễn biến ra sao, dù rằng quốc sử không nhắc tới địa danh Quy Hóa, đây là một việc làm cần thiết.
Tại tập 1, bản in năm 2004, nhà xuất bản văn hóa thông tin, “Đại Việt sử ký toàn thư” (tr332), kỷ nhà Lý chép:
“Nhà Tống đem Thuận Châu trả cho ta” tiếp ngay sau đó một trang (tr333) sử lại chép:
“Tân Dậu, năm thứ 6 (1081) (Tống Nguyên Phong năm thứ 4) mùa xuân, mặt trời có hai quầng sáng, trả lại cho nhà Tống những nhân đinh bắt được ở 3 châu: Ung, Khâm, Liêm vì cớ nhà Tống trả lại cho ta châu Quảng Nguyên” .
[Đại Việt sử ký toàn thư, t1, tr333, NXB VHTT, 2004]
Từ trên đã dẫn, một câu hỏi được đặt ra từ sự ghi chép này của sử: Thuận Châu (trang 332) với châu Quảng Nguyên (trang 333) sử chép có cùng là một địa danh, cùng một sự kiện lịch sử? Để làm rõ vẫn đề này, phải quay lại lịch sử kỷ nhà Lý trước nhà Mạc 500 năm để tìm hiểu những diễn biến phức tạp tại vùng đất Quảng Nguyên này.
Xin tóm lược một số sự kiện chính xảy ra tại biên giới phía bắc và cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Tống cùng những diễn biến lịch sử từ năm 1050 đến năm 1100 kỷ nhà Lý:
– Sự kiện Nùng Toàn Phúc.
– Sự kiện Nùng Trí Cao.
– Sự kiện Lý Thường Kiệt, Tôn Đản đánh châu Ung, châu Khâm, châu Liêm nhà Tống.
– Quách Quỳ, Triệu Tiết đánh Đại Việt tới sông Phú Lương.
– Sứ thần Kiều Văn Ứng nhà Lý được cử đi sứ, tìm phương án hòa hoãn chiến tranh. Lần đi sứ thứ nhất không thành công, lần đi sứ thứ 2 vua Lý chấp nhận các điều kiện mà Quách Quỳ đưa ra để Tống rút quân (Tống gọi sự kiện này là sự đầu hàng của nhà Lý).
– Quách Quỳ rút quân về bên kia biên giới, chiếm 5 châu của nhà Lý là: Quảng Nguyên, Quảng Lang, Tô Mậu, Môn, Tư Lang.
– Quá trình đòi đất của nhà Lý bị nhà Tống chiếm giữ.
Rất tiếc rằng, mong muốn nghiên cứu quá trình đấu tranh lâu dài, khó khăn của nhà Lý về việc đòi lại các vùng đất bị nhà Tống chiếm đóng này, người đọc sử không dễ dàng tiếp cận những diễn biến lịch sử quan trọng giai đoạn đó từ quốc sử Đại Việt. Thậm chí mối liên quan giữa hai địa danh Thuận Châu và Quảng Nguyên cũng rất khó làm rõ khi chỉ dựa vào “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”. Do vậy, nguồn sử liệu quan trọng để nghiên cứu vấn đề trên phụ thuộc rất nhiều vào bộ quốc sử “Việt Sử Thông Giám Cương Mục”. “Việt Sử Thông Giám Cương Mục” chép:
“Nhà Tống trả lại châu Quảng Nguyên. Trước đây bọn Quách Quỳ sang xâm lược các châu Quảng Nguyên đều mất về Tống. Tống đổi Quảng Nguyên thành Thuận Châu, sai quan sang cai trị, hằng năm trong số 3000 lính thú chết đến năm, sáu, mười phần. Kịp khi ta trả lại tù binh 3 châu cho Tống thì vua Tống nói: “Thuận Châu là nơi lam chướng, dẫu được cũng không lợi gì, há lại nên dồn quân lính vào chỗ chết ư?” bèn trả lại cho ta. Châu Quảng Nguyên sản nhiều vàng, người Tống có câu thơ rằng: “Nhân tham giao chỉ tượng, khước thất Quảng Nguyên kim” (Tham voi Giao Chỉ, mất vàng Quảng Nguyên)”
[Việt Sử thông giám cương mục, q3, tr214, NXB văn sử địa, 1958]
Tương tự như trên, “Đại Nam nhất thống chí” chép chi tiết hơn về Quảng Nguyên: “Huyện Quảng Nguyên: Huyện này ở phía đông phủ 69 dặm, từ phía đông đến phía tây cách nhau 88 dặm, từ phía nam đến phía bắc cách nhai 115 dặm, phía đông đến biên giới châu Thượng Lang nước Thanh 74 dặm, phía Tây đến địa giới hai huyện Thạch Lâm và Thạch An 51 dặm, phía Bắc đến địa giới các huyện Thượng Lang, Hạ Lang và châu Quy Thuận nước Thanh 64 dặm. Đời Lý là châu Quảng Nguyên, năm Quang Thuận đời Lê Thánh Tông gọi là Châu Lộng Nguyên, cuối năm Hồng Đức đời Lê Thánh Tông đổi làm Quảng Uyên như tên gọi ngày nay, cho phiên thần họ Bế được thế tập. Đầu năm Gia Long triều ta vẫn để như cũ. Năm Minh Mạng thứ 15 (1834) đổi thành huyện. Năm thứ 16 (1835) đổi đặt chức lưu quan, lĩnh 5 tổng cộng 48 xã thôn.”
Xét sử chép: “Năm Thái Bình, đời Lý Nhân Tông (1072 – 1075) nhà Tống cho Quách Quỳ sáng xâm lăng, lấy châu Quảng Nguyên đổi thành châu Thuận Châu, rồi bổ Đào Bật làm tri châu. Vua Lý Nhân Tông sai Đào Tôn Nguyên dâng voi cho nhà Tống, xin trả lại đất Quảng Nguyên vừa bị Tống xâm chiếm, vua Tống cũng bằng lòng trả đất. Nên người Tống có câu thơ “Nhân tham Giao Chỉ tượng, khước thất Quảng Nguyên kim”
[Đại Nam nhất thống chí, q2, tr1610, NXB lao động, 2012]
Từ sự diễn giải ở phần trên, địa danh Thuận Châu mà “Đại Việt sử ký toàn thư” chép tại kỷ nhà Lý chính là châu Quảng Nguyên (Quảng Uyên). Đến đây, có thể khẳng định địa danh: Thuận Châu mà “Đại Việt sử ký toàn thư” chép không liên quan gì đến Quy Hóa – Thuận Châu [Hưng Hóa], đồng thời không liên quan tới sự kiện (I) mà chúng tôi đang khảo cứu.
Như vậy, dù không có địa danh Quy Hóa, chúng ta có quyền loại trừ địa danh Thuận Châu (Quảng Nguyên) này ra khỏi nội dung sự kiện I.
Đến đây, sự thật lịch sử của sự kiện I vẫn giậm chân tại chỗ, chưa có tiến triển nào đáng kể trong tiến trình khảo cứu mà chúng tôi thực hiện vừa qua.
Khi nghiên cứu tư liệu liên quan giữa địa danh Thuận Châu (Quảng Nguyên) mà nhà Tống xâm chiếm của nhà Lý. “Đại Nam nhất thống chí” đã cung cấp một chi tiết rất quan trọng như sau:
“Huyện Quảng Nguyên: Huyện này ở phía đông phủ 69 dặm…, phía bắc đến địa giới các huyện Thượng Lang, Hạ Lang và Châu Quy Thuận nước Thanh 64 dặm”
[Đại Nam nhất thống chí, q2, tr1610, NXB lao động, 2012]
Từ sự cung cấp này của “Đại Nam nhất thống chí” cho ta biết: châu Quy Thuận nước Thanh nằm giáp địa giới huyện Quảng Nguyên Đại Việt, như vậy liệu có một sự liên quan nào giữa 2 châu Quy Thuận mà sử chép tại sự kiện I với châu Quy Thuận nước Thanh mà “Đại Nam nhất thống chí” chép?
Tìm hiểu tiếp “Lịch triều hiến chương loại chí” tại mục cương giới, Phan Huy Chú chép việc binh bộ thị lang Lê Văn Thịnh đi sứ Tống như sau:
“Năm thứ 9 (1084) (ngang với năm Nguyên phong thứ 7 của nhà Tống) mùa hạ tháng 6, sai binh bộ thị lang là Lê Văn Thịnh sang Tống bàn về việc biên cương, tuần kiểm hữu giang của Tống là Thành Trác đến hội ở Quảng Tây bàn về việc cương giới các châu Thuận An – Quy Hóa”
[Lịch triều hiến chương loại chí, q4, tr196, NXB sử học, 1962]
“Lịch triều hiến chương loại chí” cung cấp một thông tin rất quan trọng về 2 châu có địa danh: Thuận An – Quy Hóa, mà Thuận An – Quy Hóa cùng có từ đầu là “Quy” và “Thuận”. Đồng thời từ sự việc binh bộ thị lang Lê Văn Thịnh được nhà Lý cử đi sứ nhà Tống để bàn việc địa giới hai châu này, gợi ra một câu hỏi như sau:
– Châu Quy Thuận nhà Thanh đang sở hữu do “Đại Nam nhất thống chí” đã viết và châu Thuận An – Quy Hóa mà “Lịch triều hiến chương loại chí” cung cấp, cùng với hai châu Quy Thuận mà sử chép tại sự kiện số I, liệu có một sự liên quan gì với nhau không? Diễn biến lịch sử vùng đất này xảy ra như thế nào? Xuất phát từ chính những manh mối liên quan này, sau đây sẽ là những diễn biến lịch sử chính xác xảy ra tại sự kiện số I tại kỷ nhà Lý.
III. LỊCH SỬ KHÁCH QUAN SỰ KIỆN I
Từ việc “Lịch triều hiến chương loại chí” cung cấp việc binh bộ thị lang Lê Văn Thịnh đi sứ Tống ở trên, nghiên cứu “Đại Việt sử ký toàn thư” có chép một sự việc tại kỷ nhà Lý như sau:
“Giáp Tý năm thứ 9 (1084) (Tống nguyên phong năm thứ 7) mùa hạ tháng 6 sai binh bộ thị lang là Lê Văn Thịnh đến trại Vĩnh Bình cùng người Tống bàn việc cương giới”
[Đại Việt sử ký toàn thư, q1, tr332, NXB VHTT, 2004]
Cùng một sự việc, cùng một ngày, một tháng, một năm, cùng một nhân vật cụ thể “Lịch triều hiến chương loại chí” chỉ rõ nội dung sự việc, trong khi đó “Đại Việt sử ký toàn thư” chỉ nói chung chung, vì lý do gì vậy? (Lịch sử nhận thức có trăm ngàn lối đi để tới đích).
Để nhằm làm rõ lịch sử khách quan sự kiện I, chỉ dựa vào “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Lịch triều hiến chương loại chí” và các loại sách dư địa chí, các tác phẩm lịch sử khác, sẽ rất khó để người quan tâm tới lịch sử tìm được sự thật lịch sử sự kiện này.
Do vậy, việc tìm đến quốc sử Trung hoa mà cụ thể là “Tống sử” sẽ dẫn đường cho chúng ta đến lịch sử khách quan toàn bộ sự kiện I. Nhưng việc tiếp cận nguồn tư liệu sử này không dễ dàng ở ngoài xã hội.
“Tống sử” chép sự việc binh bộ thị lang Lê Văn Thịnh đi sứ chi tiết như sau:
“Năm Nguyên phong thứ 8 (1085), Giao Chỉ đem quân phá châu Quy Hóa, lấy cớ là đi tầm nã Nùng Trí Cao, lại sai bầy tôi là Lê Văn Thịnh (1084) sang Quảng Tây, xác định địa giới của châu Thuận An và châu Quy Hóa. Kinh lược sứ Hùng Bản sai tả giang tuần kiểm là Thành Trác họp bàn với Văn Thịnh”
[Tống sử 488, q4, tr5634 – 5663, T/L khoa sử, ĐH KHXH&NV. KH: LS/TL 0094]
Tại ghi chép này của “Tống sử” xảy ra 2 sự kiện giữa nhà Lý và nhà Tống:
* Năm 1084 Lê Văn Thịnh đi sứ Tống bàn về địa giới 2 châu Quy Hóa – Thuận An
* Năm 1085 nhà Lý đem quân đánh sang châu Quy Hóa của nhà Tống.
Từ sự xuất hiện 2 địa danh: Thuận An, Quy Hóa này, cùng những diễn biến tại kỷ nhà Lý, đặt ra những câu hỏi tiếp theo về số phận lịch sử vùng đất mà chúng ta đang quan tâm.
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” kỷ nhà Lý chép 2 sự kiện xảy ra tại động Vật Dương và Vật Ác như sau:
Thứ nhất:
“Mậu Tý năm thứ 5 (1048) (Tống Khánh Lịch năm thứ 8) Nùng Trí Cao làm phản, chiếm giữ động Vật Ác”
[ĐVSKTT, q1, tr312, NXB VHTT, 2004]
Thứ hai:
“Canh Dần, Sùng Hưng Đại Bảo năm thứ 2 (1050) (Tống Hoàng Hựu năm thứ 2)… mùa thu, tháng 9, người động Vật Dương làm phản, dẹp được yên.”
[ĐVSKTT, q1, tr313, NXB VHTT, 2004]
“Đại Việt sử ký toàn thư” chép 2 sự kiện trên vào năm 1048 và năm 1050 nhưng những diễn biến chi tiết không được đề cập. Từ thực tế trên, chúng tôi buộc phải cung cấp những căn cứ, bằng chứng xác đáng từ nguồn quốc sử Trung hoa cùng một số tư liệu từ nguồn sách đời Tống, đời Minh chép về sự kiện lịch sử này.
“Tống sử” bản kỷ thần tôn chép:
“Năm Hy Ninh thứ 2 (1069) tháng 5 Giao Chỉ vào Cống. Phong cho Tù trưởng mới quy phụ là Nùng Trí Hội làm chức hữu thiên ngưu vệ đại tướng quân”
[Tống sử 14, bản kỷ 14, q1, tr180, TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV. KH: LS/TL 0093]
“Tống sử” bản kỷ thần tôn cung cấp 1 nhân vật:
– Họ tên: Nùng Trí Hội
– Chức danh: Tù trưởng do nhà Lý phong
– Hành động: đem đất, dân Đại Việt quy phụ nhà Tống
– Tống phong chức hữu thiên ngưu vệ đại tướng quân.
“Tống sử” giành hẳn 1 chương: “Châu Quảng Nguyên” để viết về những diễn biến lịch sử giai đoạn này như sau:
“Họ Nùng còn có 1 người tên là Tôn Đán làm tù trưởng động Lôi Hỏa, là người hung bạo mà giảo hoạt, năm Gia Hựu thứ 2 (1057) Tôn Đán đem quân vào cướp bóc (đất Tống). Tiêu cố là quan coi Quế Châu dụ hàng Tôn Đán và cho làm trung vũ tướng quân, lại bổ con Đán là Nhật Tân thủ lĩnh động Ôn Nhuận làm chức tam ban phụng chức. Năm Gia Hựu thứ 7 (1062) Tôn Đán và con đem các động của mình là Lôi Hỏa và Kê Thành phụ thuộc vào nội địa (quy phụ nhà Tống) và xin về ở Lạc Châu để vĩnh viễn là dân của triều đình (Tống). Triều đình bèn cho Tôn Đán coi châu Thuận An và ban cho trâu cày, muối, lụa, vải… Năm ấy, bọn Nùng Hạ Thanh, Nùng Bình và Nùng Lượng cũng từ đạo Đặc Ma về quy phụ. Về sau Nhật Tân (con Nùng Tôn Đán) trông coi các thuế ở ung châu”
[Tống sử – châu Quảng Nguyên 495, liệt truyện 234, q4, tr5752 – 5754, TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV. KH: LS/TL 0093]
Qua tư liệu vừa dẫn ở trên, xuất hiện một nhân vật thứ 2:
– Họ tên: Nùng Tôn Đán
– Chức danh: Tù trưởng do nhà lý phong
– Hành động: Đem đất, dân Đại Việt nộp cho Tống
– Kết quả: Được Tống phong hàm trung vũ tướng quân, cai quản châu Thuận An
Tìm hiểu tiếp, chúng ta sẽ lần lượt được biết diễn biến quá trình nộp đất, hành động đầu hàng của các thủ lĩnh địa phương nói trên cùng các kế sách chiêu dụ do các quan chức nhà Tống thực hiện tại các vùng đất của nhà Lý như sau.
“Tống sử” liệt truyện mục Lý Sư Trung chép:
“Con Nùng Trí Cao là Tôn Đán giữ động Lôi Hỏa, các tướng trước định đánh để lập công nên Tôn Đán phải cố thủ, Sư Trung đưa thư cho Tôn Đán lấy những sự lợi hại biểu dụ. Tôn Đán bèn đem Tù trưởng các động dâng đất quy hàng”
[Tống sử liệt truyện 332, q3, tr4049 – 4050. TL khoa lịch sử
ĐH KHXH&NV. KH: LS/TL 0093]
Một bằng chứng tiếp theo về việc Nùng Tôn Đán con Nùng Trí Cao dâng đất Đại Việt quy hàng nhà Tống. Tại mục liệt truyện Vương Hãn của
“Tống sử” chép:
“Vương Hãn gọi con Tôn Đán là Nhật Tân bảo rằng: “Cha mày ở trong (Giao Chỉ) thì bị người Giao Chỉ oán thù, ở ngoài thì làm mồi cho các hiển tướng cầu công, đó không phải là kế sách, mày về bào cha mày chọn đường nào lợi thì làm”. Rồi Tôn Đán và con đều xin hàng phục”
[Tống sử 312, ltr71, q3, tr3841, TL khoa sử, ĐH KHXH&NV. KH: LS/TL 0093]
Xuất phát từ hành động của hai thủ lĩnh địa phương Nùng Trí Hội, Nùng Tôn Đán làm phản đem đất đem dân chạy sang nhà Tống. Vua Lý tức giận đem quân đánh sâu vào vùng đất mà hai thủ lĩnh này đã nộp cho Tống. Nhằm chiếm giữ lại vùng đất hai động Vật Dương, Vật Ác nhưng những cố gắng đó của nhà Lý bất thành. “Tống sử” liệt truyện mục Hùng bản ghi chép về sự kiện này như sau:
“Hùng Bản tên tự là Bá Thông, quê ở Phiên Dương. Bấy giờ triều đình đã đem đất Thuận Châu (Quảng Nguyên) cho Lý Càn Đức, vì cương giới chưa được chia cắt nhất định nên Giao Chỉ xâm lược động VẬT DƯƠNG đuổi Nùng Trí Hội, Trí Hội vào xin viện binh, bản đưa thư sang chất vấn Giao Chỉ. Càn Đức xin rút quân và xin tạ tội”
[Tống sử 334, ltr 93, q4. tr4072 – 4073, TL khoa sử,
ĐH KHXH&NV. KH: LS/TL 0093]
Thời gian về sau với những cố gắng bằng con đường ngoại giao, nhà Lý liên tục đòi đất hai động Vật Dương và Vật Ác đã bị mất vào Tống.
“Tống sử” chép:
Trong đời Nguyên Hựu (1086 – 1093) Càn Đức luôn luôn dâng biểu đòi lại những đất VẬT ÁC và VẬT DƯƠNG nhưng triều đình không nghe”.
[Tống sử, ltr 147, q4, tr5654 – 5663 TL/LS khoa sử,
ĐH KHXH&NV. KH: TL/LS 0093]
Nhà Lý sau sáu lần cử sứ thần sang Tống đòi lại đất động Vật Dương và Vật Ác đã mất(hai lần vào thời gian: Tống thần tông còn tại vị và bốn lần thái hoàng thái hậu họ Cao nhiếp chính) nhà Lý đã không thể đòi lại số đất đai mà Nùng Tôn Đán, Nùng Trí Hội dâng nộp cho nhà Tống.
Nhằm trả lời cho câu hỏi cuối: tại sao lại xuất hiện châu Quy Hóa và Thuận An liên quan đến hai động Vật Dương và Vật Ác mà Nùng Trí Hội, Nùng Tôn Đán dâng nộp cho nhà Tống, có thể tổng hợp các dẫn chứng đã dẫn kết hợp lại, để hiểu sự tương quan này:
“Giao Chỉ xâm lược động Vật Dương đuổi Nùng Trí Hội”
hoặc
“Triều đình bèn cho Tôn Đán coi châu Thuận An”
Chỉ qua hai tư liệu dẫn trên có thể nội suy như sau:
* Động Vật Dương do Nùng Trí Hội nộp cho nhà Tống, nhà Tống đổi làm châu Quy Hóa.
* Động Vật Ác do Nùng Tôn Đán nộp cho nhà Tống, nhà Tống đổi thành châu Thuận An.
Trong cuốn “Tục tự trị thông giám trường biên” do Lý Đào đời Tống soạn. Chép biểu tâu của kinh lược sứ Quảng Tây Hùng Bản gửi về triều đình Tống như sau:
“Năm Gia Hựu (1057) Nùng Tôn Đán đem động Vật Ác nộp. Vua ban tên là châu Thuận An. Đời Trị Bình (1064) Nùng Trí Hội đem động Vật Dương nộp, vua ban tên là châu Quy Hóa”
[Tục tự trị thông giám trường biên – dẫn theo sách “Chuyện đi sứ – tiếp sứ” Nguyễn Thế Long biên soạn, tr79 NXB VHTT, 2001]
Để khép lại phần viết về sự kiện số I này, với những dẫn giải tỉ mỉ, cụ thể, chi tiết ở trên, nhằm mong người đọc sử thấu hiểu bản chất khách quan của một sự kiện lịch sử đã diễn ra cách ngày nay gần 1000 năm, cách nhà Mạc gần 500 năm tại kỷ nhà Lý, được các sử gia Lê Trung hưng biên chép cho nhà Mạc.
Sự kiện số I này theo chúng tôi, còn một phương pháp suy luận đơn giản hơn để tìm ra lịch sử khách quan như sau: Bắt đầu từ sự cung cấp trong “Đại Nam nhất thống chí”:
“Huyện Quảng Nguyên… phía bắc đến địa giới các huyện Thượng Lang, Hạ Lang và châu Quy Thuận nước Thanh 64 dặm”
[ĐNNTC, q1,tr160, NXB lao động, 2012]
Xuất phát từ lần dẫn trên chúng ta thấy: Châu Quy Thuận nước Thanh mà “Đại Nam nhất thống chí” chép là 1 vùng đất trùng tên với 2 châu Quy – Thuận tại sự kiện số I. Từ đó, tìm hiểu trong “Lịch triều hiến chương loại chí” tại mục: Bang giao kỷ nhà Trần chép:
“Anh Tông, năm Hưng Long thứ 2 (1313) (ngang với năm Hoàng – Khánh thứ 3 nhà Nguyên) sai đem hơn 3 vạn quân bất thần kéo đến châu Trấn Yên, lại chia quân lấn châu Quy – Thuận”
[LTHCLC, q4, tr196, NXB sử học, 1962]
Sau đó tìm hiểu tiếp “Việt sử thông giám cương mục” sự việc năm 1313 được chép:
“Cùng với nhà Nguyên định lại bờ cõi về phía bắc cho được rõ ràng, lúc ấy viên tri châu Trấn Yên nhà Nguyên là Triệu Giác bắt người châu Tả Lang nước ta, lấy mất 1 lọ vàng và lấn hơn 1000 mảnh ruộng. Nhà vua (Trần) bèn sai quân sang đánh châu Quy – Thuận và châu Dưỡng Lợi nhà Nguyên”
[Việt sử thông giám cương mục, q6, tr567, NXB văn sử địa, 1958]
Kết hợp cụ thể các mục dẫn giải ở trên, không cần thiết cụ thể hóa qua “Tống sử” người đọc sử có thể suy luận rằng: Hai châu Quy Thuận đã thuộc nhà Nguyên(1313), nhà Trần cho quân đánh sang hai châu này. Vậy thì nhà Mạc(sau nhà Trần 200 năm) còn đâu đất Quy Thuận mà cắt cho nhà Minh? Lại nữa, hai châu này đã thuộc sở hữu từ nhà Nguyên, nhà Minh. Như vậy, không lẽ nhà Mạc lấy đất của nhà Minh cắt cho nhà Minh ư? Với những lập luận đơn giản vừa qua có thể đem đến kết quả cuối cùng nhằm luận tìm lịch sử khách quan sự kiện I mà chúng ta đang quan tâm.
Sử chép về sự kiện cống nạp, ngoại giao của nhà Mạc năm 1528 như sau:
“…và hai hình người bằng vàng và bạc, cùng là châu báu của lạ vật lạ. vua Minh thu nhận từ đấy nam bắc lại sai thông sứ đi lại”
Tách vấn đề này ra khỏi sự việc 2 châu Quy Thuận tai sự kiện I, để giúp người đọc sử thấy rằng vấn đề nối lại quan hệ ngoại giao giữa nhà Mạc và nhà Minh phải trải qua một thời gian rất phức tạp và kéo dài gần 15 năm. Thực tế vấn đề ngoại giao được nối lại giữa hai nước Đại Việt và Trung Hoa giai đoạn lịch sử này, việc khảo cứu vấn đề trên không quá khó vì thế xin không ghi chép cụ thể, tại phần này chúng tôi sẽ đề cập đến việc triều cống của nhà Mạc xảy ra năm 1542, tại giai đoạn vua Mạc Phúc Hải chấp chính.
Chúng ta đều biết, năm 1528 Lê Lợi giành được độc lập toàn vẹn lãnh thổ Đại Việt. Sau chiến tranh, đường lối ngoại giao với nhà Minh, nhà Lê lấy phương châm: giữ hòa hiếu, dùng nhu thắng cương, nhằm lập lại hòa bình và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Giai đoạn ngoại giao sau 1428 là một thời kỳ đầy khó khăn, nhà Lê đã chấp nhận những đòi hỏi từ phía nhà Minh như:
– Chấp nhận phong cho Trần Cảo (nhà Trần).
– Chấp nhận phong đô thống sứ.
– Chấp nhận cống hai người bằng vàng, bạc thế thân (đại nhân thân kim).
Mặt trận ngoại giao là hàn thử biểu cho mối quan hệ giữa Đại Việt và các triều đại Trung hoa, giữa nước lớn và nước nhỏ, giữa kẻ mạnh và người yếu đã diễn ra hàng thiên niên kỷ. Thang bậc giá trị duy nhất mà các triều đại quân chủ Đại Việt áp dụng trong ngoại giao giữa hai nước là:
– Chung sống hòa bình
– Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Đại Việt
– Độc lập, tự chủ thật sự
Đối với mặt trận ngoại giao, nhà Mạc cũng áp dụng những giải pháp vừa nêu ở trên lấy nhu thắng cương, “thuần phục” có chủ đích.
Ngoại giao được nối lại giữa nhà Mạc và nhà Minh xuất hiện đầu tiên vào tháng 12 năm 1542 sau 15 năm gián đoạn (1527 – 1542).
“Lịch triều hiến chương loại chí” chép rất đầy đủ về việc đi sứ đầu tiên này của nhà Mạc:
“Phúc Hải sai sứ sang tạ ơn, lời biểu nói: Thần xin kính thay tiền nhân mà nhận chức tuyên đức hóa cho mọi người, đức trạch chánh lệnh ban ra, nhờ ơn đào tạo, thuế má thổ ngơi dâng cống xin giữ lệ thường”
[LTHCLC, q4, tr149, NXB văn sử địa, 1962]
Chúng ta chú ý đến 10 từ “thuế má thổ ngơi dâng cống xin giữ lệ thường”.
Dù trong biểu cầu hàng, nhà Mạc có nêu lên cụ thể vấn đề: Người vàng, người bạc mà nhà Minh đòi hỏi, nhưng khi thực hiện việc triều cống đã thể hiện trong văn bản ngoại giao: “Xin giữ lệ thường”.
Lần đi sứ nộp cống vào tháng 12/1542 “Lịch triều hiến chương loại chí” đã ghi chép phái đoàn đi sứ cùng đồ vật trong lần cống nạp như sau:
“Trang tông, năm Nguyên Hòa thứ 10 (1542) (ngang với năm Gia Tĩnh thứ 2 nhà Minh) năm Quảng Hòa thứ 2 nhà Mạc) Mạc Đăng Dung đã được phong, sai bọn Nguyễn Chiêu Huấn, Vũ Tuân và Tạ Đình Quang đem sản vật sang tiến cống nhà Minh:
– Lư hương và bình hoa bằng vàng 4 bộ (100 lạng)
– Rùa vàng 1 con (nặng 90 lạng)
– Hạc bạc và đài bạc mỗi thứ 1 cái (nặng 50 lạng)
– Bình hoa và lư hương bằng bạc 2 bộ (nặng 150 lạng)
– Mâm bạc 12 chiếc (641 lạng)
– Trầm hương 60 cân
– Tốc hương 148 cân”
[LTHCLC, q4, tr172, NXB văn sử địa, 1962]
Và cũng chính Phan Huy Chú nhận định về lễ cống phẩm này của nhà Mạc như sau:
“Xét: Thời Lê Sơ thông hiếu với Trung Quốc, có người vàng thay mình để đền mạng Liễu Thăng, nhà Minh định làm cống phẩm. Đến khoảng giữa mới đổi ra làm lư hương, bình hoa và vàng bạc, vẫn nặng bằng người vàng. Đến lễ cống của nhà Mạc đây, đại để cũng theo như lệ cũ, mà các thứ đồ bạc mâm bạc thì lại tăng thêm hơn trước”
[LTHCLC, q4, tr172, NXB văn sử địa, 1962]
Trong cuốn “Thù vực chu tư lục” đã chép đầy đủ về sự kiện ngoại giao đầu tiên này của nhà Mạc như sau:
“Mạc Phúc Hải sai bọn bắc tuyên phủ đồng tri là Nguyễn Kính Điển, thiêm sự Nguyễn Công Nghi mang biểu sang kinh sư tạ ơn, tờ biểu như sau
“Phúc Hải chúng tôi kính xin thay người trên để chịu ơn, đối với nhân dân để mà chịu phúc, ơn đức thi ra, chính lệnh ban đến, ghi nhớ trong lòng đâu giám quên. Đất đai sinh ra, thuế khóa nạp vào xin theo lệ thường để cung tiến. Kính dâng phương vật như sau:
– Lư hương và bình cắm hoa bằng vàng 4 bộ nặng 290 lạng
– Rùa vàng một con nặng 19 lạng
– Hạc bạc, đài bạc mỗi thứ 1 cái nặng 51 lạng
– Lư hương bạc, bình hoa bạc 2 bộ nặng 150 lạng
– Mâm bạc 12 chiếc nặng 691 lạng
– Trầm hương 60 kg, hương tốc 148 kg
– Giáng chân hương 30 cây
– Sừng tê 30 cái
– Ngà voi 30 cái
Và các thứ khác như vóc, lụa, vải”
[Thù vực chu tư lục, bản chép tay, dịch giả: Trần Lê Hữu,
TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV. KH: LS/TL 0089]
Việc triều cống của nhà Mạc được “Lịch triều hiến chương loại chí” và “Thù vực chu tư lục” cung cấp chi tiết, trùng khớp không có người vàng và người bạc trong lễ vật đem cống nạp vào tháng 12 năm 1542.
Phương pháp nghiên cứu sự kiện số I ở trên đã được trình bày gồm các bước cơ bản như sau:
* Bằng phương pháp loại trừ, chúng tôi dựa vào các loại sách dư địa chí ba thời kỳ: Trước nhà Mạc, sau nhà Mạc, cận đại và ngày nay, nhằm loại ra các địa danh có từ đầu là Quy và Thuận thuộc trấn Hưng Hóa xưa và châu Quảng Nguyên ra khỏi sự kiện I.
* Từ sự mô tả địa giới châu Quảng Nguyên, các nhà địa lý học triều đình nhà Nguyễn, đã cung cấp một thông tin về châu Quy Thuận nước Thanh, cộng với tư liệu từ “Lịch triều hiến chương loại chí” soạn kỷ nhà Lý, mô tả sự việc binh bộ thị lang Lê Văn Thịnh đi sứ Tống bàn về địa giới 2 châu Quy Hóa – Thuận An là chìa khóa để tìm tới sự thật sự kiện lịch sử số I.
Chúng tôi rất muốn khai thác toàn bộ diễn biến lịch sử số I bằng chính nguồn sử liệu, dư địa chí của chính Đại Việt. Việc phải tham khảo nguồn tư liệu từ “Tống sử” là nằm ngoài ý muốn đó, vì tư liệu lịch sử từ trong nước không đáp ứng nổi nhu cầu này trong tiến trình đã thực hiện ở trên.
Sau khi đã hoàn thành công việc trả lại lịch sử khách quan sự kiện số I, một câu hỏi được đặt ra là: Tại sao sử gia Lê trung hưng đã dùng sự kiện lịch sử trước nhà Mạc 500 năm (xảy ra tại kỷ nhà Lý) để đặt vào tay nhà Mạc? Liệu có “nhầm lẫn đáng tiếc” như PGS-TS. Đinh Khắc Thuân nhận định?
Không! Sử gia Lê trung hưng không hề nhầm lẫn, “lịch sử nhận thức” có ngàn tay, trăm đường muôn nẻo nhằm tới một mục đích: Giết chết lịch sử khách quan mà nó đối kháng.
Cho đến hiện nay, sự kiện lịch sử lên ngôi của Mạc Thái Tổ còn tồn tại rất nhiều ẩn số, chưa được làm rõ. Sáu tháng trước năm 1527, đã có những cố gắng cầu phong cho(Lê Cung Hoàng), đã được “Minh sử”, “Việt Kiệu thư”, “An Nam Chí Nguyên” ghi chép cụ thể:
“Năm (Gia Tĩnh) thứ 5 (1526), Đăng Dung đút lót Đường Thạnh phán quan Khâm Châu, để Đường Thạnh vận động việc cầu phong cho Khoáng (Lê Cung Hoàng), nhưng vì có sự đàn hặc của đô ngự sử Trương Đính, Thạnh bị tống ngục”
[An Nam Chí Nguyên, tr28, KH: ĐVv 29s0 – TL/LS – viện sử học]
Những tồn tại từ ban đầu như vậy, lịch sử nhà Mạc càng chìm dần vào tay “lịch sử nhận thức”.
BẢNG TÓM TẮT SƠ LƯỢC SỰ KIỆN SỐ I
Phần III: Sự kiện số II
NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 6 ĐỘNG: TÊ PHÙ, KIM LẶC, CỔ SÂM, LIỄU CÁT, AN LƯƠNG, LA PHÙ CHÂU VĨNH AN TRẤN YÊN QUẢNG CHO NHÀ MINH
Qua ngòi bút sử gia Lê trung hưng cuối
năm 1540 một lần nữa nhà Mạc tiếp tục cắt đất sáu động tại biên giới
đông bắc Đại Việt cho nhà Minh, sau khi đã “hoàn thành”
việc cắt đất hai châu Quy Thuận năm 1528. Lần cắt đất thứ hai này của
nhà Mạc được sử ghi chép tỉ mỉ, rõ ràng về số lượng, đơn vị hành chính,
địa danh nơi bị cắt đất, nhân chứng và vật chứng cùng thời gian xảy ra,
sử chép:“Mùa đông tháng 11, Mạc Đăng Dung cùng với cháu là Văn Minh và bề tôi là bọn Nguyễn Như Quế, Đỗ Thế Khanh, Đặng Văn Trị, Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô Văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi Chí Vĩnh, qua trấn Nam Quan, mỗi người đều cầm thước, buộc dây vào cổ, đi chân không đến bò rạp ở mạc phủ nước Minh, rập đầu quỳ dâng tờ biểu xin hàng, biên hết đất đai, quân dân, quan chức trong nước để xin xử phân, nộp các động: Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An trấn Yên Quảng xin cho nội thuộc vào Khâm Châu”
[ĐVSKTT, tr621, q2, NXB VHTT, 2004]
Qua nội dung sử chép, hai sự kiện lịch sử của nhà Mạc đồng thời xảy ra cùng một thời điểm.
* Nhà Mạc đầu hàng nhà Minh
* Nhà Mạc cắt đất 6 động của Đại Việt cho nhà Minh
Sự kiện nhà Mạc đầu hàng nhà Minh chúng tôi xin tách ra đưa vào một sự kiện riêng. Tại sự kiện số II này chỉ giành cho việc phân tích, đánh giá, phục hồi sự kiện để trả lại lịch sử khách quan việc dâng nộp 6 động đất đai mà sử đã chép.
Trong quá trình khảo cứu diễn biến sự kiện số II sẽ xuất hiện liên tiếp 2 địa danh quan trọng đó là:
– Châu Như Tích
– Châu Thiếp Lãng
Cùng với địa danh 6 “động” từ các nguồn sách khác nhau, chúng thường được viết ra không thống nhất. Chính vì vậy, việc làm đầu tiên cần phải: Thống nhất tên các địa danh khác nhau này về đúng, chính xác, địa danh chuẩn. Địa danh chuẩn theo thông lệ căn cứ trong bản dịch quốc sử Đại Việt, quốc sử Trung Hoa: Tống, Nguyên, Minh cùng sự kết hợp các loại sách dư địa chí khác nhau cần tìm đến trong quá trình nghiên cứu về sau.
1.1. Châu
Chọn địa danh chuẩn là: – Như Tích
– Thiếp Lãng
Như vậy các tư liệu có tên châu như sau;
– Thạch Tích (Phan Bội Châu chép)
– Như Âm (Lê Tắc chép)
Cùng là một địa danh: Như Tích
Nghĩa là: Thạch Tích = Như Âm = Như Tích
Các tư liệu có tên là:
Chiêm Lãng (Nguyễn Văn Siêu chép, Hải Đoan chép)
Thiệm Lãng (Phan Huy Chú chép)
Cùng là 1 địa danh: Thiếp Lãng
Nghĩa là: Chiêm Lãng = Thiệm Lãng = Thiếp Lãng
1.2. Động
Chọn địa danh chuẩn là:
– Động Tư Lẫm
– Động Thìn La
– Động Kim Lặc
– Động Liễu Cát
– Động Cổ Sâm
Do vậy các tư liệu chép là:
* Tê phù, Tư phù, Tê Lẫm, Bài Lẫm = Tư Lẫm (cùng 1 địa danh)
* Thời La = Thìn La (cùng 1 địa danh)
* Tư Lặc, Khả Lặc = Kim Lặc (cùng 1 địa danh)
* Nha Cát, Cát, Cá Cát = Liễu Cát (cùng 1 địa danh)
* Cổ Xung = Cổ Sâm (cùng 1 địa danh)
Lấy một ví dụ “Đại Nam nhất thống chí” chỉ ra việc sử thần Lê trung hưng nhầm lẫn (hay cố tình?) dùng địa danh: TÊ PHÙ như sau:
“Động TƯ LẪM sử nhà Lê chép là TÊ PHÙ là nhầm”
[ĐNNTC, q2, tr1300, NXB lao động, 2012]
* Nhà Tống dùng đơn vị hành chính là “quản”
“Quản” tương đương với “động” ở Đại Việt.
* Nhà Minh sử dụng đơn vị hành chính là “Đô”.
1 “Đô” bao gồm 1 hoặc 2,3 “động”.
* Nhà Lê Đại Hành dùng đơn vị hành chính là “trấn”
VD: Trấn TRIỀU DƯƠNG, “trấn” nhà Lê Đại Hành tương đương với “thừa tuyên” nhà Lê
Sau đây là một số đơn vị hành chính thường được dùng tại thời Lê – Mạc:
– Thừa Tuyên: Là đơn vị hành chính cao nhất trong một quốc gia tương đương 2,3 tỉnh ngày nay (nhà Lê nước ta có 13 thừa tuyên)
– Phủ: Là một đơn vị hành chính sau thừa tuyên phủ được dùng tại miền núi
– Huyện: Là đơn vị hành chính sau trấn, phủ, châu
– Động: Là một đơn vị hành chính tương đương huyện, sau phủ, châu được dùng tại miền núi.
– Xã: Là một đơn vị hành chính sau huyện tương đương một làng lớn 500 hộ dân tại miền đồng bằng.
– Thôn: Là đơn vị hành chính sau xã tương đương 100 hộ dân
– Trang, nguyên: Là một đơn vị hành chính tương đương thôn được dùng ở miền trung du.
– Sách: Là một đơn vị hành chính nhỏ hơn thôn hay được dùng tại các trung du và miền núi.
– Hương, giáp: Là đơn vị hành chính nhỏ hơn thôn thường được dùng ở đồng bằng.
1 thôn = 1, 2 giáp, hương.
Chúng tôi xin cung cấp một số chức danh cổ hay gặp trong các tư liệu sử dụng tại sự kiện số II này để người đọc dễ hình dung địa vị chức trách của các nhân vật lịch sử tham gia sự kiện:
– Đô Ty: Tên gọi tắt của thượng thư sảnh tả hữu ty thời Đường – Tống tên gọi tắt của đô chỉ huy sứ nhà Minh.
– Đô đốc thiêm: Được dùng đời Hồng Đức nhà Lê, trật tòng nhị phẩm, ngang hàng thượng thư và thái tử tam thiếu bên văn.
– Đô ngự sử: Là trưởng quan của ngự sử, đài, trật chính tam phẩm, vinh phong tư chính thượng khanh, giữ phong hóa pháp độ.
– Kinh lược đại sứ: Chức tạm thời do vua ban ủy nhiệm đi kinh lý một công việc nào đó.
– Kinh lược sứ đồng tri: Là chức danh cấp phó của kinh lược sứ, chức của võ quan, trật tòng lục phẩm.
– Tả Thị Lang: Trật tòng tam phẩm là chức quan tứ nhị của thượng thư tại lục bộ.
– Binh bộ thị lang: Bộ trưởng một bộ trong triều đình lục bộ: Lại, hộ, lễ, binh, hình, công.
– Tri Châu: Tổng quan của một châu, nắm giữ công việc của 1 châu.
– Tuần Vũ: Chức danh đứng đầu một tỉnh nhỏ, trật tòng nhị phẩm.
– Trấn điện tướng quân (VD: Trấn tướng Hoàng Đình Nhã)
Trật tòng ngũ phẩm, võ quan cai quản một trấn thời Lê Đại Hành, Lý, Trần.
– Khâm sai đại thần: Là đại thần trong triều được đặc phái ra ngoài làm việc nội chính hay ngoại giao, xong công việc, bỏ đi.
[Mười ba chức danh cổ được tham khảo từ sách: “Từ điển chức quan Việt Nam”, tác giả: PGS – TS. Đỗ Văn Ninh – viện sử học]
Tương tự như tại sự kiện số I, chúng tôi xin chép ra các phản ứng hai chiều từ dư luận xã hội đối với sự kiện lịch sử số II này do sử cũ chép.
Cho đến ngày nay, nhận thức của xã hội về sự kiện I, sự kiện II do sử gia Lê trung hưng biên chép về nhà Mạc nhìn chung là chưa thay đổi, dù rằng từ năm 1985 đến nay đã có bốn cuộc hội thảo cấp quốc gia về vương triều Mạc.
Lần thứ nhất: Năm 1994, hội thảo vương triều Mạc tại Hải Phòng.
Lần thứ hai: Năm 2010, hội thảo về lịch sử vương triều Mạc tại Hà Nội, nhân kỉ niệm 1000 năm Thăng Long.
Song song với những hội thảo quy mô quốc gia trên, đã có trên 10 đầu sách được biên soạn về nhà Mạc, các tác giả đa phần là sử gia, nhà nghiên cứu lịch sử đương đại. Đầu tiên là cuốn sách: Vương triều Mạc (1527 – 1592) do viện sử học ấn hành năm 1992. Sau đó là những cuốn sách tập hợp các nghiên cứu từ các hội thảo được in và phát hành ra công chúng. Đặc biệt, PGS – TS. Đinh Khắc Thuân đóng góp ba đầu sách nghiên cứu về nhà Mạc, trong ba cuốn đó, có một luận án bảo vệ chức danh Tiến sĩ của ông tại Paris (Pháp). Gần 30 năm qua, những quan điểm mới của giới sử học về vấn đề nhuận triều, ngụy triều của nhà Mạc và một số vấn đề khác đã được đánh giá khách quan hơn, một vài giáo sư sử học đã nhìn nhận lại sự kiện I và sự kiện II của nhà Mạc trên quan điểm khác nhằm tìm kiếm sự trung thực cho lịch sử giai đoạn này.
Nhưng trên thực tế từ những công trình biên soạn riêng rẽ của các công trình đã biên soạn về nhà Mạc, sự kiện 1 và sự kiện II của nhà Mạc đã không được giải quyết đến tận gốc, những nhận thức mới này không lan tỏa được ra ngoài xã hội, nhất là những người đọc sử yêu thích lịch sử dân tộc.
Năm 2012 trên tờ báo “Thanh Niên” phát hành ngày 10/11, PGS-TS. Tạ Ngọc Liễn – viện sử học đã viết một bài báo dài với tựa đề: “Nên công bằng với nhà Mạc”. Chúng tôi không đi sâu vào nội dung bài báo, nhưng với cách đặt tên bài báo, tác giả vừa mong muốn vừa đề nghị toàn xã hội có cái nhìn khách quan công bằng hơn với lịch sử nhà Mạc. Sau đây chúng tôi xin điểm qua một số đánh giá sự kiện số II của nhà Mạc, mà giới sử học nước nhà đã viết.
1.1.“Việt sử thông giám cương mục” chép:
“Đăng Dung lại xin dâng đất các động: Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù, An Lương thuộc châu Vĩnh An ở Yên Quảng để lệ thuộc vào Khâm Châu nhà Minh”
[Việt sử thông giám cương mục, q11, tr1338, NXB văn sử địa, 1959]
NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 6 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINH1.2. Tại mục dư địa chí phủ Hải Đông, trong sách: “Lịch triều hiến chương loại chí” Phan Huy Chú chép:
“Nhà Mạc buổi đầu” đem dâng 2 châu, 4 động cho nhà Minh, cõi đất mới hẹp đi (*)”
(*: Là chú thích của Phan Huy Chú)
“*”: 2 châu là châu Như Tích, châu Thiệm Lãng, 4 động là: Động Cổ Sâm, động Tê Lẫm (hay Phù), động Kim Lặc, động Liễu Cát”
[Lịch triều hiến chương loại chí, t1, tr112, NXB KHXH, 1962]
NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 2 CHÂU, 4 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINH1.3. Trong sách: “Việt Nam quốc sử khảo” Phan Bội Châu chép về sự kiện II này như sau:
“Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, sợ nhà Minh hỏi tội, đã lấy 2 châu: Thạch Tích và Niệm Lãng và 4 động: Cổ Sâm, Tư Lẫm, Kim Lặc, Liễu Cát hiến cho nhà Minh. Bản án kết tội bọn ấy nên ghi là: “Lấy đất đai của nước, nhân dân nước tặng người nước ngoài, tội đáng chém ” chúng nó lấy lời gì để biện bạch được.”
[Việt Nam quốc sử khảo, tr 112, NXB khoa học xã hội, 1982]
NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 2 CHÂU, 4 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINH1.4. Trong sách: “Việt Nam sử lược” do Trần Trọng Kim biên soạn, tới sự kiện II này, sử gia viết:
“Đến tháng 11 năm Canh Tý (1540) Mạc Đăng Dung thấy quân nhà Minh sửa soạn sang đánh sợ hãi quá chừng, bèn để Mạc Phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng với bọn Vũ Như Quế cả thảy hơn 40 người, tự trói mình ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam Quan, lạy phục xuống đất để nộp sổ điền thổ và sổ dân đinh, lại xin dâng đất 5 động: Tê Phù, Cổ Sâm, Kim Lặc, Liễu Cát, La Phù và đất châu Khâm, lại đem vàng bạc dâng riêng cho nhà Minh”
[Việt Nam sử lược. tr294-295, NXB văn hóa thông tin. 2008]
NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 5 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINH1.5. Nhà sử học phía nam Phạm Văn Sơn trong “Việt sử toàn thư” của ông, đánh giá sự kiện II như sau:
“Trong bối cảnh lịch sử như vậy, Mạc Đăng Dung chỉ mất một ít vàng bạc và 5 động mà tránh được tai họa chiến tranh. Đối với những nhà sử học chân chính chúng ta không có gì phải đòi hỏi hơn nữa”
[Việt sử toàn thư, tr436, NXB Sài Gòn 1960]
NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 5 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINH1.6. Giáo trình giảng dạy trường đại học sư phạm Hà Nội, do Nguyễn Phan Khoa, Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh biên soạn, viết về sự kiện 2 như sau:
“Run sợ trước thế lực của quân Minh, Mạc Đăng Dung sai người lên biên giới gặp quan tướng nhà Minh dâng biểu xin hàng, sau đó Đăng Dung còn cử người sang tận kinh đô nhà Minh dâng biểu xin hàng và cắt đất 5 động ở phía đông bắc (các động: Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù) cho sát nhập vào Khâm châu”
[Lịch sử Việt Nam, q2, đại học sư phạm Hà Nội, tr73, NXB giáo dục, 1980]
NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 5 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINH1.7. Lê Thành Khôi tác giả cuốn:
“Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XX” đã viết về sự kiện 2 như sau:
“Để lấy lòng nhà Mình vốn đang phải đối phó với các cuộc nổi dậy của nông dân, cũng như áp lực của người Mông Cổ tại biên giới. Mạc Đăng Dung đã dâng cho họ 5 động, 5 động này được sáp nhập vào Khâm châu (1541)”
[Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XX, tr287, NXB Nhã Nam 2014]
NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 5 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINH1.8. Hội thảo vương triều Mạc 1994 tại Hải Phòng, PGS – TS Đỗ Văn Ninh Viện sử học viết về sự kiện II như sau:
“Năm 1540, Mạc Đăng Dung từng cùng cháu và một số bầy tôi lại từng qua trấn Nam Quan tự buộc dây vào cổ bò rạp ở mạc phủ nhà Minh dâng biểu xin hàng, nộp 6 động: Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An, đất Yên Quảng cho vào Khâm Châu”
[Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, tr303, hội khoa học lịch sử Việt Nam xuất bản 1996]
NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 5 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINH1.9. Sách giáo khoa lớp 10: “Hướng dẫn trả lời câu hỏi và bài tập lịch sử 10” do Nguyễn Thị Côi (chủ biên), Nguyễn Thị Thế Bình, Nguyễn Thị Bích, NXB đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh XB 2006, các tác giả đã viết về sự kiện 2 như sau:
“Việc nhà Mạc thực hiện chính sách ngoại giao lúng túng, Mạc Đăng Dung cùng 40 quan lại cởi trần quỳ gối cửa ải Nam Quan dâng sổ sách, cắt đất 5 động phía đông cho nhà Minh là việc làm đáng chê trách”
[Sách giáo khoa lớp 10: “Hướng dẫn trả lời câu hỏi và bài tập lịch sử 10”, tr127., NXB đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh XB, 2006]
NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 5 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINH1.10. Khi hiệu đính bản dịch “Đại Việt sử ký toàn thư” năm 1968, tại sự kiện I đã trình bày ở phần trên, cố giáo sư Đào Duy Anh đã chú thích 1 dòng chữ( mười lăm từ) nhưng rất quan trọng cho bản chất sự kiện số I. Chú thích ấy là tư liệu quan trọng cho học trò của ông là cố giáo sư Trần Quốc Vượng và một số giáo sư sử học khác sử dụng trong những công trình nghiên cứu sau này của họ.
Nhưng thật đáng tiếc đến sự kiện II, cố giáo sư Đào Duy Anh đã không chú thích gì về sự kiện lịch sử số II khi ông hiệu đính bản dịch (1968). Không những thế, trong tác phẩm “Lịch sử Việt Nam” của ông tái bản năm 2016, cố giáo sư Đào Duy Anh đồng quan điểm với sử thần Lê trung hưng về việc nhà Mạc cắt đất Đại Việt cho nhà Minh:
“Bấy giờ nhà Minh muốn lấy cớ hỏi tội họ Mạc đã cướp ngôi nhà Lê, phát binh 1 vạn(?) quân xâm lược nước ta. Họ Mạc phải nộp đất 5 động thuộc châu Vĩnh An( Quảng Yên) để xin hàng”
[Lịch sử Việt Nam. tr316, NXB văn học, 2016]
NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 5 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINHTập hợp 10 dẫn chứng ở trên bắt đầu từ bộ quốc sử triều Nguyễn: “Cương mục” và các tác phẩm lịch sử của các sử gia cận đại và hiện nay nổi lên 2 điểm như sau:
- Số lượng châu, động mà các sử gia đưa ra tại sự kiện II, mâu thuẫn nhau quá lớn.
- 10 dẫn chứng ở trên đều đồng thuận với sử gia Lê trung hưng: Nhà Mạc cắt đất Đại Việt cho nhà Minh. Hầu hết những ghi chép này không lý giải phân tích gì sự kiện II mà chỉ hoàn toàn áp đặt theo sử chép và tự ý đưa ra số lượng châu, động khác nhau một cách tùy tiện, không thể lý giải nổi.
Gần như tuyệt đại đa số các sử gia nước ta đồng quan điểm về sự kiện II mà sử gia Lê trung hưng biên chép, nhưng cũng có một số sử gia có quan điểm phản bác nội dung sự kiện số II, tuy số lượng rất khiêm tốn, sau đây chúng tôi xin dẫn ra ý kiến từ 3 nhà sử học đương đại.
- Tham luận tại hội thảo vương triều Mạc năm 1994 tại Hải Phòng, nhà nghiên cứu lịch sử Hải Đoan đã viết về sự kiện 2 này như sau:
Như vậy, số đất đai của ta mà 1 số sử gia nói là Mạc Đăng Dung cắt dâng cho nhà Minh không thống nhất.
Một nguồn tài liệu đáng tin cậy về vấn đề này là nội dung bài biểu xin hàng của Mạc Đăng Dung có đề cập đến. Trong bài biểu có:
“…còn việc quan thú Khâm châu tâu rằng 4 động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát thuộc 2 đô (chứ không phải châu, Hải Đoan chú) Như Tích và Chiêm Lãng là đất cũ của Khâm châu. Nếu quả thực như lời ấy, thì đó là lỗi mạo nhận của họ Lê trước, nay thần xin giao trả lại…”
Mạc Đăng Dung nói lấp lửng như vậy, sau không rõ có trả hay không, vì thực tế nhiều điều như ông ta hứa như bỏ đế hiệu, như nộp người vàng đều thấy lờ đi. Trong tờ sắc dụ của vua Minh gửi Mạc Phúc Hải cũng không thấy nhắc đến việc bốn động này. Lại nữa tháng 11 năm Canh Tý (1540) bọn Mạc Văn Minh, Nguyễn Văn Thái, Hứa Tam Tỉnh mang tờ hàng biểu của Mạc Đăng Dung tới Yên Kinh mất gần một năm trời. Đến 20 tháng 10 năm Tân Sửu (1541) Mao Bá Ôn mới trình được lên vua Minh, trong khi đó ngày 22 tháng 8 năm này Mạc Đăng Dung đã chết. Như vậy việc nộp đất cho giặc của Mạc Đăng Dung với tình hình sử liệu như trên cũng chưa thể khẳng định mà cần xem xét kĩ hơn”
[Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, tr70 – 71, hội khoa học lịch sử VN, 1996]
Kết luận cuối cùng của nhà nghiên cứu lịch sử Hải Đoan cũng chỉ dừng lại ở những đề nghị tiếp tục xem xét thận trọng sự kiện này.
- Tại hội thảo năm 1994 cố giáo sư Trần Quốc Vượng đã có những quan điểm ngược lại với người thầy của ông (cố giáo sư Đào Duy Anh)
Sử nhà Minh chép hệt như thần Siêu: Quan cát địa sứ của Minh đi hoạch định cương giới (1541) thì chỉ cỏ đất 2 châu mà đã là của Minh rồi, còn lại đều là tên đất khống! Đấy chẳng qua là đường lối “Thần phục giả vờ” (vassalitéfictive) của mọi triều đại Việt Nam”
[Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, tr34-35, hội lịch sử Việt Nam, 1996]
Bài viết của cố giáo sư Trần Quốc Vượng tại hội thảo vương triều Mạc năm 1994, những lập luận của ông đã dựa hẳn vào “Phương đình dư địa chí” của Nguyễn Văn Siêu không đủ sức thuyết phục và vẫn bỏ ngỏ các vấn đề tồn tại khác của sự kiện II. Đó là vấn đề: Diễn biến sự việc tại thời điểm trước và sau năm (1540), nguồn gốc sở hữu đất đai khu vực mà sử chép. Theo chúng tôi, bài viết của cố giáo sư Trần Quốc Vượng tại diễn đàn hội thảo cũng chỉ mang tính cảnh báo cần thận trọng nghiên cứu sự kiện lịch sử số II.
- Vào năm 2000, luận án tiến sĩ được bảo vệ thành công tại Paris (Pháp) của PGS – TS Đinh Khắc Thuân (chức danh ngày nay). Đối với sự kiện II, ông đã có những quan điểm hoàn toàn mới, sâu hơn, cụ thể hơn, khách quan hơn từ các nguồn tư liệu quan trọng của Trung Quốc: Thù vực chu tư lục, Khâm châu chí, Minh sử…Trong tác phẩm: “Góp phần nghiên cứu lịch sử triều Mạc ở Việt Nam” ra đời năm 2012 của ông, đây là những trang viết sâu nhất, khách quan nhất về sự kiện II từ trước đến nay nhằm trả lại sự thật lịch sử sự kiện số II, ông viết:
Việc trả lại đất mà thường được gọi là: “Việc cắt đất của nhà Mạc cho nhà Minh” cũng từng bị phê phán khá gay gắt và Mạc Đăng Dung được coi là “chủ mưu” trong việc này bị lên án là người “không biết liêm sĩ”, là “phản quốc”. Theo nguồn sử liệu Việt Nam, Mạc Đăng Dung đã có ít nhất là 2 lần “cắt đất” cho nhà Minh. Đó là vào năm 1528, cắt hai châu Quy Thuận và năm 1540 cắt 1 số động cho nhập vào đất Khâm châu.
Về sự kiện năm 1540, hiện còn sự khác biệt về số động và tên gọi cả các động mà nhà Mạc trả lại cho nhà Minh được ghi trong những tác phẩm sử học khác nhau. Trong bảng 2(*), ta thấy số lượng động là 4, có chỗ lại ghi là 5, thậm chí là 6, còn tên các động này thì là Kim Lẫm, Tư Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát và La Phù hoặc Tư Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương (An Lãng), La Phù, tại sao có sự khác biệt này? Thực tế số động mà nhà Mạc đã trả lại cho nhà Minh là bao nhiêu?
Những địa danh thuộc Khâm châu ở sát biên giới Việt Trung, xuất hiện khá sớm trong lịch sử từ những năm đầu công nguyên, khi Mã Viện dựng cột đồng trụ trên núi Phân Mao, mà ở đó cư dân địa phương được định vị bằng các tên gọi là “động”. Để bảo vệ đất biên giới, quân đội dựng doanh trại ở các động này, đặc biệt là ở các vị trí chiến lược quan trọng suốt theo chiều dài biên giới, sổ động ngày một đông dân cư và dần dần được liên kết với nhau với mục đích tăng cường khả năng quân sự, nên đã hình thành các “đô”. “Đô” được hình thành trên cơ sở được liên kết các động lại với nhau, tương tự hình thức xuất hiện đơn vị hành chính “tổng” sau này. Vùng biên giới đông bắc, vốn có 3 “đô” là: Như Tích, Thời La và Chiêm Lãng với 7 “động” là: Chiêm Lãng, Thời La, Tư Lẫm, Liễu Cát, Cổ Sâm, Kim Lặc và La Phù. Trong đó, các động Tư Lẫm, La Phù, Liễu Cát và Kim Lặc thuộc “đô” Như Tích, còn các động Cổ sâm, Chiêm Lãng thuộc “đô” Chiêm Lãng, động Thời La cũng là “đô” Thời La. Mỗi “động” có người đứng đầu gọi là “động chủ”. Trong niên hiệu Chí Nguyên (1285-1314) thuộc vua Thế Tổ triều Nguyên, động trưởng động Tư Lẫm là Hoàng Thế Hoa vì có công với triều đình trong việc giữ gìn an ninh biên giới nên được ban ấn tín cai quản cả 7 động này. Năm 1368, năm nhà Minh thành lập hai vị tướng quân là Lưu Vinh Trung và Chu Lượng Tổ được phái đến vùng Khâm châu nhằm củng cố quyền lực của vương triều mới này. Họ đã đổi chức “động chủ” thành chức “động trưởng” và cấp cho ấn tín mới. Trong thời kì này, dân cư ở đây tương đối đông đúc, cụ thể như vào năm 1427, 4 động Tư Lẫm, Cổ Sâm, Kim Lặc và Liễu Cát có 29 thôn với 292 hộ.
Như vậy, từ thời Tống đến thời Minh, xuất hiện 3 loại hành chính: Đô, động, thôn, mỗi đô gồm từ 1 đến 4 động, mỗi động có trên dưới 7 thôn, mỗi thôn có chừng 40 hộ, cả thảy 3 đô, 7 động trên lệ vào Khâm châu dưới thời Minh. Nhưng năm 1427, có 4 động thuộc về nhà Lê của Việt Nam. Sách Khâm châu chí chép “năm Tuyên Đức thứ 2 (1427), động trưởng động Tư Lẫm là Hoàng Kim Quảng và Động trưởng động Cổ Sâm là Hoàng Khoan, cùng với Hoàng Tử Kiều, Hoàng Kiến kéo theo 4 động với 29 thôn, 292 hộ về An Nam”. Trong số 4 động trên, thì 3 động: Tư Lẫm, Kim Lặc và Liễu Cát thuộc về đô Như Tích, còn động Cổ Sâm thuộc đô Chiêm Lãng. Khi theo về với nhà Lê, 3 động của đô Như Tích thuộc về phủ Vạn Ninh, còn động Cổ Sâm thuộc về phủ Tân Yên lúc bấy giờ. Các vị động trưởng này đều được nhà Lê phong thưởng chức tước, như động trưởng Hoàng Kim Quảng được phong là Kinh lược sứ đồng tri. Sau đó, vua Minh cho gọi các động trưởng này về nhưng không thành. Cụ thể là: “Tháng 9 năm chính thống thứ 5 (1440), ngự sử Chu Giảm phụng chiếu thư đem theo 3 ty đô, bố (bố chánh sứ), án (án sát sứ), đến Khâm châu chiêu dụ phản dân Hoàng Kim Quảng, Hoàng Khoan, Hoàng Tử Kiều, Hoàng Kiến. Nhưng cả 4 người đều không đến trình diện. Cuối cùng Chu Giám phải bỏ về. Nhưng vào năm 1540, khi nhà Minh đe dọa quân sự, con cháu các vị động trưởng này liền bỏ về, như trong lời tâu lên vua Minh Mao Bá Ôn viết:
“Các chức hành lệnh ở 4 động: Tư Lẫm, Cổ Sâm, Liễu Cát và Kim Lặc của Khâm châu, nguyên là chức tước của An Nam, lại có chú thêm là chức tham chánh phó sứ. Vậy xin chiếu nguyên ngạch biên vào sổ của Khâm châu và ưu đãi như hiện nay, chờ 3 năm sau, cấp lương theo cấp bậc”
Rõ ràng là nhà Minh đã lấy lại 4 động này trước khi diễn ra sự đầu hàng trên của nhà Mạc. Tình thế hết sức căng thẳng đã buộc Mạc Đăng Dung phải chấp nhận 1 việc đã rồi và kết cục ông đã phải giải trình trong biểu đầu hàng của mình rằng:
“Thủ thần Khâm châu tâu xưng là 4 động: Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, và Liễu Cát của 2 đô Như Tích và Chiêm Lãng là đất cũ của Khâm châu. Nếu quả như vậy thì những đấy ấy do triều trước họ Lê mạo nhận mà có. Nay hạ thần xin dâng các xứ ấy lệ vào Khâm châu”
Quả là Mạc Đăng Dung chưa hề cắt đất cho nhà Minh, nhưng ông đã phải bó tay và buộc phải chấp nhận sự kiện các động trưởng của 4 động ở sát biên giới đông bắc trở lại với nhà Minh. Với những vùng đất này, nhà Mạc cũng không thể tránh khỏi sự đối mặt với lời viện cớ có tính tiền lệ có từ thời Tống rằng: “những đất mà nhà Tống đã chiếm đóng thì sẽ trao trả lại cho Giao Chỉ, nhưng những đất mà thủ lĩnh của nó tự theo về thì không thể trả lại được”. Tương tự như vậy, làm sao nhà Mạc có thể giữ lại được 4 động trên khi mà các động trưởng đã bỏ về với nhà Mình? Thực tế chỉ có 4 động thuộc 2 đô như vừa trình bầy ở trên trả về đất Khâm châu”
[Góp phần nghiên cứu lịch sử triều Mạc ở Việt Nam, tr56 – 60, NXB khoa học xã hội, 2012]
Như ở trên chúng tôi đã viết: Đây là những trang viết mổ xẻ phân tích sự kiện II dài nhất và chất lượng nhất, với trình độ chuyên môn sâu về lịch sử. Ông đã chỉ rõ những diễn biến khách quan quá trình hình thành và kết thúc sự kiện II. Ngoài xã hội, nhiều nhà phê bình lịch sử chuyên nghiệp, không chuyên đã có những quan điểm phản bác về sự kiện II này như tác giả Huệ Thiên, Lê Văn Hòe, Trần Khuê vv…
Mỗi một giai đoạn lịch sử từ các triều đại phong kiến trước kia hay nước CHXHCN Việt Nam ngày nay, tính kế thừa từ những giá trị của lịch sử là vô cùng lớn lao, từ đó, từng giai đoạn lịch sử nhất định xuất hiện các bộ quốc sử do nhà nước quân chủ hay nước CHXCN Việt Nam biên soạn tiếp theo, tính kế thừa của lịch sử đã được các sử gia từng giai đoạn lịch sử cụ thể tiếp nối tuân thủ triệt để.
Vì vậy, các bộ sách biên chép về lịch sử như: “Lịch sử Việt Nam” do ủy ban khoa học xã hội Việt Nam chủ biên, xuất bản năm 1971. Hay, “lịch sử Việt Nam thế kỷ…” do viện sử học chủ biên, xuất bản năm 2007, là những bộ quốc sử nối tiếp được hiệu đính, biên dịch, chép thêm các giai đoạn lịch sử kế cận. Đồng thời công bố những phát hiện mới về lịch sử đất nước, các bộ sách lịch sử ra đời tiếp nối là tiếng nói chính thống của giới sử học nước nhà giai đoạn hiện nay. Lịch sử nhà Mạc là một bộ phận cấu thành lịch sử của đất nước, những ghi chép phân tích đánh giá từ những bộ lịch sử mới, là những quan điểm chính thống dẫn hướng chỉ đạo toàn bộ việc dạy học lịch sử dân tộc, cũng như định hướng công luận về lịch sử nước nhà. Đối với lịch sử nhà Mạc, hai cuốn quốc sử mới: “Lịch sử Việt Nam” xuất bản 1971 và 2007 đã có những đóng góp không nhỏ cho quá trình kế thừa, phát huy những giá trị lịch sử. Viết về sự kiện lịch sử thứ II này, tại cuốn “Lịch sử Việt Nam”, tập 1 tái bản năm 1976 đã có những nhận định như sau:
“Thậm chí họ Mạc còn dựa vào thế lực của ngoại bang, đầu hàng, thỏa hiệp với nhà Minh để hòng đổi lấy sự “ủng hộ” của nước ngoài. Lúc bấy giờ, triều Minh đã suy vong và đang mắc kẹt trong những cuộc xung đột với phong kiến Mông Cổ ở phía bắc, với “giặc biển” ở phía đông và đặc biệt là với phong trào khởi nghĩa của nông dân trong nước. Trong tình hình đó, nhà Minh mà ý chí xâm lược đã bị đè bẹp bởi cuộc kháng chiến anh dũng của dân tộc ta vào đầu thế kỉ XV, rõ ràng không dám xâm phạm đến nước ta. Nhưng họ Mạc đã tỏ ra hèn hạ không kế thừa được truyền thống giữ nước vô cùng oanh liệt của dân tộc. Trước sự đe dọa của nhà Minh, Mạc Đăng Dung đã đầu hàng và đem dâng một phần đất của tổ quốc cho kẻ thù để mong được rảnh tay đàn áp nhân dân và đối phó với phe phái đối lập trong nước.”
[Lịch sử Việt Nam, tập 1, tr289 – 291, NXB khoa học xã hội Hà Nội, TB 1976]
36 năm sau ( 1971 – 2007), tại cuốn “Lịch sử Việt Nam”, quyển 3, thế kỉ XV – XVI do viện sử học Việt Nam chủ biên và xuất bản, tai mục: “Cuộc chính biến ở Đại Việt năm 1527 và mưu toan của nhà Minh” chép:
“Ý muốn chống cự lại quân Minh của nhà Mạc sớm tiêu tan, vì nhà Mạc không nắm biết được thực tình đầy khó khăn của nhà Minh lúc đó và mưu kế hư trương thanh thế từ xa của quân Minh, đã làm cho nhà Mạc hoảng sợ. Phía trước là quân Minh đe dọa, phía sau là lực lượng phù Lê diệt Mạc đang hoạt động mạnh mẽ. Trước tình thế đó, để giữ được quyền lợi của dòng họ, Mạc Đăng Dung và Mạc Đăng Doanh đã chấp nhận đầu hàng”
[Lịch sử Việt Nam, thế kỉ XV- XV, q3, tr438 – 439, viện khoa học xã hội – viện sử học Việt Nam xuất bản, 2007]
Tại mục: “ Lịch sử vùng đất mà Mạc Đăng Dung cắt nhượng cho nhà Minh” chép:
“Nếu đối chiếu so sánh những ghi chép trong các nguồn sử liệu Trung Quốc và Việt Nam, chúng ta thấy ai là chủ quyền đầu tiên, cũng như sự thay đổi về mặt địa lí hành chính của những địa danh nói trên là vấn đề rất phức tạp, ngày nay thật khó xác định rõ được. Chúng ta chỉ biết vùng đất tranh chấp đó ở thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI là nằm trong biên giới Đại Việt, sau đấy năm 1540, Mạc Đăng Dung cắt nhượng cho nhà Minh và vùng đất này thuộc vào lãnh thổ Trung Quốc”
[Lịch sử Việt Nam, thế kỉ XV- XVI, q3, tr455, viện khoa học xã hội – viện sử học Việt Nam xuất bản, 2007]
Đối chiếu hai cuốn sách “lịch sử Việt Nam” ra đời cách nhau 36 năm (1971 – 2007), chúng ta nhận thấy những quan điểm chính thống từ các sử gia nước nhà đối với lịch sử vương triều Mạc nói chung hay sự kiện hai nói riêng là không thay đổi theo thời gian.
A – PHỤC HỒI SỰ KIỆN
Quyển 2, sách, “Đại Việt sử ký toàn thư” NXB văn hóa thông tin ấn hành năm 2004 tại trang 621 sử chép:
“Mùa đông tháng 11, Mạc Đăng Dung cùng với cháu là Văn Minh và bề tôi là bọn Nguyễn Như Quế, Đỗ Thế Khanh, Đặng Văn Trị, Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô Văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi Chí Vĩnh qua trấn Nam Quan mỗi người đều cầm thước, buộc dây vào cổ, đi chân không đến bò rạp ở mạc phủ nước Minh, rập đầu quỳ dâng tờ biểu xin hàng, biên hết đất đai, quân dân, quan chức trong nước để xin xử phân, nộp các động: Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An trấn Yên Quảng xin cho nội thuộc lệ vào Khâm châu”
[ĐVSKTT, q2, tr621, NXB VHTT, 2004]
Chúng tôi gọi sự kiện trang 621 là (A), chỉ sau 20 dòng chữ tiếp theo tại trang 622, sự kiện A đột nhiên được viết hoàn toàn khác đi:
“Tháng 10 ngày 20, bọn Mao Bá Ôn về Yên Kinh tâu nói rằng: “Mạc Đăng Dung tự trói mình dâng lễ hàng ở cửa ải, xin tuân theo chính sóc, tước bỏ tiếm hiệu TRẢ LẠI ĐẤT 4 ĐỘNG ĐÃ XÂM CHIẾM”
[ĐVSKTT, q2, tr622, NXB VHTT, 2004]
Chúng tôi gọi sự kiện trang 622 này là (B)
So sánh 2 sự kiện nêu trên, tự bản thân từng câu, từng chữ đã tách thành 2 nội dung mang bản chất hoàn toàn mâu thuẫn nhau:
* Sự kiện A: Do chính người chép sử cung cấp.
* Sự kiện B: Lời viết thông qua một nhân vật trung gian là Mao Bá Ôn.
* Số lượng động khác nhau: 4 và 6
* Hành động của đối tượng sự kiện khác nhau:
– Cắt đất 6 động châu Vĩnh An trấn Yên Quảng của Đại Việt cho nhà Minh (A)
– Trả lại đất 4 động đã xâm chiếm của nhà Minh cho nhà Minh (B)
Lịch sử chỉ có một sự thật
(A) đúng thì (B) sai và ngược lại
Tại mục “Lịch sử vùng đất mà Mạc Đăng Dung cắt nhượng cho nhà Minh” trong cuốn “Lịch sử Việt Nam thế kỷ XV – XIV” xuất bản năm 2007, các sử gia ngày nay nhấn mạnh đến yếu tố chủ quyền đầu tiên đối với vùng đất tại sự kiện số II này:
“Nếu đối chiếu so sánh những ghi chép trong các nguồn tư liệu Trung Quốc và Việt Nam chúng ta thấy ai là chủ quyền đầu tiên, cũng như sự thay đổi về mặt địa lý hành chính của những địa danh nói trên là vấn đề rất phức tạp , ngày nay khó xác định rõ được.”
[Lịch sử Việt Nam thế kỷ XV – XIV, q3, tr455, viện KHXH – viện sử học VN xuất bản, 2007]
Như vậy, mấu chốt quan trọng nhất của sự kiện II nằm tại vấn đề lịch sử vùng đất do sử chép, nghĩa là chủ sở hữu đầu tiên số đất đai này thuộc về Đại Việt hay Trung Hoa? Từ tính chất rất phức tạp của sự kiện số II, cộng với hành vi nghiêm trọng của việc “cắt đất”, đã đẩy sự kiện này của nhà Mạc thành 1 bản án trong lịch sử đất nước, tập trung rất nhiều sử gia, các học giả trong nước đã gắng công phiên án cho nhà Mạc, nhưng cho đến nay chưa có sử gia nào thành công. Các sử gia trong cuốn “Lịch sử Việt Nam thế kỷ XV – XIV” nhận định tiếp:
“Trong quan hệ chính trị giữa nhà Mạc và nhà Minh, việc Mạc Đăng Dung cắt nhượng đất cho nhà Minh là vùng 2 đô NHƯ TÍCH – CHIÊM LÃNG cùng 4 động: Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát là vấn đề nặng nề nhất, bị nhiều sử gia sau này lên án gay gắt. Tuy nhiên từ thế kỷ XIX, có học giả từng muốn phiên án cho Mạc Đăng Dung trong vấn đề này.”
[Lịch sử Việt Nam, t3, tr448, NXB VHTT, 2007]
Xuất phát từ những tính chất phức tạp, nghiêm trọng của sự kiện lịch sử số II, việc góp phần làm rõ sự thật lịch sử sự kiện số II không những xác lập lại lịch sử chân chính của nhà Mạc nói riêng, mà còn bổ xung những tư duy chiều sâu cho phương pháp nghiên cứu lịch sử. Góp phần tìm lại những giá trị nguyên thủy của lịch sử luôn chứa hai giá trị cốt lõi là: Khách quan và công bằng.
Nhằm xác định chính xác chủ quyền, sở hữu đất đai ban đầu vùng đất hai châu Như Tích – Thiếp Lãng, hành trình mà chúng tôi phải tìm tới từ những nguồn tư liệu sau đây:
* Tư liệu từ dư địa chí cổ Đại Việt và Trung Hoa.
* Từ liệu từ quốc sử Đại Việt, quốc sử Trung Hoa: Tống, Minh, Thanh.
Từ những bằng chứng xác đáng nhất sẽ là chìa khóa mở tiếp ra những diễn biến phức tạp của sự kiện lịch sử kéo dài từ 1427 đến 1540 tại khu vực biên giới đông bắc nước ta từ kỷ nhà Lê đến kỷ nhà Mạc.
1.1. Những bằng chứng chính xác, những căn cứ pháp lý quan trọng từ nguồn sách dư địa chí, bản đồ cổ Đại Việt quyết định nguồn gốc chủ quyền 2 châu Như Tích – Thiếp Lãng thuộc ai.
Có lẽ không quá khó, quá phức tạp để tìm ra nguồn tư liệu này của chính đất nước chúng ta, đó là:
Cuốn: “Ức trai di tập” của Nguyễn Trãi hay còn gọi là “An Nam vũ cống” được ông soạn năm 1435 và cuốn “Hồng Đức bản đồ” do triều đình vua Lê Thánh Tông lập năm (1467 – 1469).
1.2 Cuốn “Ức trai di tập – dư địa chí” hay “An Nam vũ cống”
“An Nam Vũ Cống” được Nguyễn Trãi soạn năm 1435. Đây là cuốn sách gồm 54 mục trình bày về vị trí địa lý, hình thể sông núi, thổ nhưỡng, tập tục cư dân toàn cõi Đại Việt. “An Nam Vũ Cống” được in từ bản khắc năm Tự Đức thứ 2 (1868), do hai nhà nghiên cứu Phan Duy Tiếp, Hà Văn Tấn hiệu đính, biên dịch và chú thích năm 1960. Trong 54 mục trình bày địa lý, tại mục “XXV Vân Cừ, Kim Tiêu, Phân Mao ở về An Bang”(sau tránh tên húy đổi làm An Quảng (Yên Quảng)) Nguyễn Trãi viết:
“Vân Cừ là tên sông, tên khác của sông Bạch Đằng, tiền Ngô Vương bắt Hoằng Tháo, Hưng Đại vương bắt Mã Nhi đều ở chỗ ấy. Phân Mao là tên núi, Kim Tiêu là cột đồng ở phía tây lộ phủ Hải Đông 300 dặm có dãy núi Phân Mao, ở nửa chừng dãy núi có cột đồng của Mã Viện dựng, lớn chừng 3 thước khoảng niên hiệu Nguyên – Hóa (806 – 820) đời Đường đô hộ là Mã Thông lại dựng cột đồng ở chỗ cũ đời Hán. An Bang xưa là bộ Ninh – Hải; tây và nam tiếp nối Hải Dương; đông và bắc giáp với Khâm châu, có 2 lộ phủ, 8 thuộc huyện, 6 châu, 302 làng xã, 44 trang. Đấy là phiên giậu thứ 2 ở phương đông vậy”
[Ức trai di tập – dư địa chí, tr34, NXB sử học, 1960]
Phần dẫn trên là một trong 54 mục mà Nguyễn Trãi viết. Sau đó vua Lê Thái Tông sai Nguyễn Thiên Túng viết tập chú, Nguyễn Thiên Tích viết lời cẩn án. Lời cẩn án của Nguyễn Thiên Tích là một bản danh sách chép rõ tên các phủ, huyện, châu và số xã, thôn, trang, động, sách. Tại mục XXV trên của Nguyễn Trãi, Nguyễn Thiên Tích viết lời cẩn án chi tiết như sau:
“Cẩn án(*) phủ Hải Đông có 3 huyện , 4 châu, 101 xã:
Huyện Hoa Phong có 14 xã, 1 thôn
Huyện Yên Hưng có 25 xã, 1 thôn, 15 trang
Châu Vân Đồn (triều Lý là trang, thương nhân ngoại quốc ở đấy) có 10 trang, 1 phường
Huyện Hoành Bồ có 25 xã, 2 trang
Châu Tân An có 16 xã, 1 thôn, 53 trang
Châu Vạn Ninh có 18 xã, 2 trang, 4 động
Châu Vĩnh An có 3 xã
Phủ Dương Tuyền có 5 huyện, 2 châu, 201 xã
Huyện An phố có 30 xã
[Minh mở đường thủy vạn ninh, Vĩnh An phố. Trương phụ đặt đệ(quân thông tin liên lạc), thủy dịch(trạm đường thủy) thẳng đến Khâm châu, lại đặt mã dịch(trạm chạy ngựa) từ Gia Lâm đến Hoành Châu]
Huyện Hoành Cừ có 40 xã
Huyện Yên Nhiêu có 6 xã
Châu Như Tích có 67 xã, 4 động
Châu Thiếp Lãng có 11 xã, 9 động”
[Ức trai di tập – dư địa chí, tr34 – 35, NXB sử học, 1960]
Từ những khái quát thống kê không chi tiết ban đầu của Nguyễn Trãi trong “An Nam vũ cống”:
“An Bang xưa…có 2 lộ phủ, 8 thuộc huyện, 6 châu, 302 làng xã, 44 trang…”
Nguyễn Thiên Tích đã cụ thể hóa chi tiết đến từng địa phương như đã dẫn ở trên và điều cần quan tâm nhất ở nội dung này là: Nguyễn Trãi đã công nhận An Bang có 6 châu.
“An Bang xưa …. 6 châu…”
Nguyễn Thiên Tích triển khai chi tiết:
“phủ Dương Tuyền….
Châu Như Tích
Châu Thiếp Lãng…”
Như vậy, với nhận thức của cá nhân Nguyễn Trãi giai đoạn 1435 và của người cẩn án sau đó đã cùng thể hiện quan điểm Đại Việt sở hữu hai châu:
– Như Tích
– Thiếp Lãng
1.3 Cuốn dư địa chí “Hồng Đức bản đồ”
1.3.1. Những nguyên tắc pháp lý cao nhất cho sự ra đời của “Hồng Đức bản đồ”:
Chúng ta đều nhận thấy, quá trình hình thành “An Nam vũ cống” hay “Hồng Đức bản đồ” là một tiến trình quan trọng trong việc quản lý lãnh vực cương giới, đất đai lãnh thổ Đại Việt. Tiến trình này là nhận thức nảy sinh từ một cá nhân(Nguyễn Trãi) hay một bộ máy quản lý xã hội từng giai đoạn lịch sử của đất nước. Phạm vi ảnh hưởng từ sản phẩm địa lý học ra đời tại giai đoạn này, mang ý nghĩa chính trị rất lớn về công việc đối nội cũng như đối ngoại của một quốc gia có chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Nhằm thống kê quản lý lãnh thổ, lãnh hải đất nước, trước năm 1945, Đại Việt có hai cuốn dư địa chí được gọi là quốc chí mà nội dung của nó chứa đựng tính pháp lý cao nhất trong lĩnh vực địa lý học, đó là: “Hồng Đức bản đồ” và “Đại Nam nhất thống chí”.
Cũng như ngày nay, bản đồ hành chính nước CHXHCN Việt Nam khi xuất bản và phát hành phải tuân thủ nghiêm ngặt các bước thủ tục pháp lý cao nhất mà trình tự xuất bản phải tuân theo:
– Biên giới quốc gia thể hiện theo quyết định của nhà nước CHXHCN Việt Nam
– Địa danh quốc tế theo quyết định của bộ tài nguyên và môi trường.
– Địa giới, địa danh trong cả nước theo tài liệu nào đó, quyết định bởi chính phủ nước CHXHCN Việt Nam.
Đề cập vấn đề trên, chúng tôi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của các văn bản pháp quy mà quốc gia (phong kiến hay ngày nay) thể hiện trong lĩnh vực địa lý, bản đồ nhằm thực hiện chủ quyền lãnh thổ lãnh hải mà quốc gia đang sở hữu và quản lý.
Sự xuất hiện các tác phẩm dư địa chí do các cá nhân biên soạn, tuy cùng bản chất với sách do quốc gia ấn hành. Nhưng hoàn toàn không thể so sánh tính pháp lý, tầm quan trọng đặt ngang bằng với sách, bản đồ quốc gia ấn định. Do những biến động lịch sử từng giai đoạn, nhận thức của một cá nhân soạn sách dư địa chí có thể không trùng khớp với quan điểm pháp lý tối cao của một quốc gia thực hiện trách vụ của mình trong lĩnh vực địa lý học.
1.3.2. Sự ra đời của “Hồng Đức bản đồ”
Trước tiên đó là sự ghi chép từ quốc sử Đại Việt đối với một lĩnh vực của một quốc gia: Địa lý học, “Đại Việt sử ký toàn thư” kỷ nhà Lê chép:
“Đinh Hợi năm thứ 8 (1467) (Minh Thánh Hóa thứ 3)… tháng 6 ngày mùng 1… sai 12 thừa tuyên tra xét trong hạt mình những nơi sông núi hiểm dị, cùng sự tích xưa nay, vẽ thành bản đồ, ghi chú rõ ràng gửi cho bộ hộ để làm bản đồ địa lý”
[Đại Việt sử ký toàn thư, q2, tr289 – 290, NXB VHTT, 2004]
* Lần thứ nhất:
Công việc bắt đầu năm 1467 đến năm 1469 hoàn thành “Hồng Đức bản đồ” là dấu ấn đầu tiên trong lĩnh vực quản lý lãnh thổ, đất đai, cương giới mang tầm vóc quốc gia, sử chép:
“Kỉ Sửu năm thứ 10 (1469)… định bản đồ của phủ châu huyện xã trang sách thuộc 12 thừa tuyên trong nước”
[Đại Việt sử ký toàn thư, q2, trs310, NXB VHTT, 2004]
* Lần thứ hai:
Do có sự mở rộng đất đai của Chiêm Thành bản đồ Hồng Đức được định lại lần thứ 2 vào năm 1490, sử chép:
“Canh Tuất năm thứ 21 (1490) Minh Hoằng trị thứ 3. Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 5 định lại bản đồ trong nước; 13 xứ thừa tuyên có 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 30 nguyên, 30 trường ”
[Đại Việt sử ký toàn thư, q2, tr417 – 418, NXB VHTT, 2004]
* Đánh giá sự ra đời của “Hồng Đức bản đồ” Nguyễn Văn Siêu đã bình luận trong “Phương đình dư địa chí” như sau:
“Cương lý nước ta đến đời Hồng Đức nhà Lê có thể gọi là đủ và kĩ lắm”
[Phương đình dư địa chí, tr103, NXB tự do Sài Gòn, 1960]
Từ sự ghi chép của quốc sử Đại Việt, cùng với nhận xét trong “Phương đình dư địa chí” của Nguyễn Văn Siêu. Cách ngày nay gần 600 năm, vấn đề đất đai cương vực lãnh thổ quốc gia đã trở nên một nhiệm vụ trọng yếu trên toàn cõi Đại Việt, dưới sự lãnh đạo toàn diện, thống nhất của một chính thể phong kiến hùng mạnh nhất trong lịch sử Đại Việt. “Bản đồ Hồng Đức” chi tiết tới từng trang, sách, xã, huyện, châu, phủ, trên toàn bộ lãnh thổ Đại Việt.
* “Hồng Đức bản đồ” cung cấp về khu vực đất đai khảo sát tại sự kiện số II:
Tại mục thừa tuyên Yên Quảng sách chép:
“Thừa Tuyên Yên Quảng: 1 phủ, 3 huyện, 4 châu.
Phủ Hải Đông: 3 huyện, 4 châu
- Huyện Hoành Bồ: 27 xã
- Huyện An Hưng: 15 xã
- Huyện Hoa Phong: 14 xã
- Châu Tiên An
- Châu Vạn Ninh: 13 xã, 6 trang, 2 nguyên
- Châu Vĩnh An: 3 xã
- Châu Vân Đồn: 37 sách”
Sơn xuyên hình thế chi đồ
- B: Tây nam giáp Hải Dương giới, D: Nam; G: Đông Nam giáp Đại Hải
- B giáp Lạng Sơn; D: An hưng huyện; E: Bạch Đằng; F: Hoa Phong huyện
- C: Tiên An châu; D: Hoành bồ huyện
- B: Vạn Trùng Sơn; C: Hải đông phủ
F: Vĩnh An châu; G: Hồng Đàm
- B: Bắc giáp nội địa giới; D: Bắc
[Hồng Đức bản đồ, tủ sách viện khảo cổ, tr44 – 45, bộ quốc gia giáo dục xuất bản, 1962]
1.4. So sánh “An Nam vũ cống” và “Hồng Đức bản đồ”
“An Nam vũ cống” thừa nhận Yên Quảng có 6 châu trong đó có hai châu: Như Tích, Thiếp Lãng.
“Hồng Đức bản đồ” không công nhận 2 châu: Như Tích, Thiếp Lãng là đất đai của Đại Việt. Từ sự so sánh hai tư liệu địa chí trên, ta thấy cùng một chính thể quân chủ phong kiến, thời gian ra đời của hai tác phẩm địa lý học này(1435 – 1469) cách nhau là 34 năm lại có sự khác biệt là tại sao?
Như ở trên chúng tôi đã trình bày “An Nam vũ cống” là nhận thức chính trị đối với địa lý quốc gia của một cá nhân tại thời điểm lịch sử năm 1435. “Hồng Đức bản đồ” là văn bản địa lý học mang tầm vóc của một quốc gia và là một văn bản pháp lý cao nhất của một quốc gia ghi chép nội dung nguồn gốc chủ quyền đất đai, biên giới lãnh thổ, lãnh hải Đại Việt.
Ai cũng biết, bản gốc “Hồng Đức bản đồ” đã thất lạc, khá nhiều sự phân tích, đánh giá của các nhà địa lý học nước ta về sự xuất hiện bản tiếp theo(13 thừa tuyên). Chúng tôi không đi sâu vào vấn đề trên, nhưng để khẳng định sự chính xác từ văn bản gốc(xuất hiện giai đoạn 1467 – 1469) sang bản(sau 1490) trở đi, chúng tôi sẽ lần lượt tuân thủ phương pháp đối chứng với các tư liệu địa lý học khác ở phần sau đây.
1.5. Sự thận trọng cần thiết
Cuốn “Hồng Đức bản đồ” mà chúng tôi đã dẫn ở trên, được bộ quốc gia giáo dục Sài Gòn xuất bản năm 1962, ngày nay cuốn này được in trong bộ sách “Tổng tập dư địa chí”. Sách do nhóm ông Trương Bửu Lâm chọn, biên dịch từ nguồn Đông Dương văn khố tại Tokyo (Nhật Bản) số ICO: 891 (chúng tôi không có khả năng đối chứng toàn bộ tác phẩm “Hồng Đức bản đồ” mà chỉ chú trọng đối chứng mục Thừa Tuyên, Yên Quảng đã dẫn).
Sau đây là những tư liệu từ quốc sử Đại Việt và dư địa chí để đối chứng chi tiết mục thừa tuyên Yên Quảng gồm:
– Quốc sử triều Nguyễn: “Việt sử thông giám cương mục”
– “Lịch triều hiến chương loại chí”
– “Phương đình dư địa chí”
* “Việt sử thông giám cương mục” chép về thừa tuyên Yên Quảng như sau:
“Định bản đồ trong nước, nhà Lê định bản đồ 12 thừa tuyên như sau:…” [VIII. Yên Bang một phủ]
Phủ Hải Đông quản lĩnh 3 huyện:
+ Hoa Phong
+ Hoành Bồ
+ Yên (An) Hưng
Và 4 châu
+ Tân (Tiên) An
+ Vạn Ninh
+ Vân Đồn
+ Vĩnh An”
[Việt sử thông giám cương mục, q11, tr1088, NXB văn sử địa, 1959]
* “Lịch triều hiến chương loại chí” mục An Bang chép:
“Phủ Hải Đông
Có 4 huyện, 3 châu
Huyện: Hoành Bồ
Huyện: Yên Hưng
Huyện: Hoa Phong
Huyện Tân Bình
Châu: Vạn Ninh
Châu: Vân Đồn
Châu: Vĩnh An”
[Lịch triều hiến chương loại chí, q1 – dư địa chí, tr112 – 113, NXB sử học, 1960]
* Cuốn sách “Phương đình dư địa chí” của Nguyễn Văn Siêu chép Yên Bang thừa tuyên như sau:
“Yên Bang thừa tuyên 1 phủ, 3 huyện, 4 châu
Hải Đông phủ: 3 huyện, 4 châu
– Hoành Bồ huyện: 27 xã
– Yên Hưng huyện: 24 xã, 1 trang
– Hoa Phong huyện: 18 xã
– Tiên Yên (Tân An) châu: 13 xã, 67 trang
– Vạn Ninh châu: 13 xã, 6 trang, 2 nguyên
– Vĩnh An châu: 3 xã
– Vân Đồn châu: 37 sách”
[Phương đình dư địa chí, tr103, NXB Sài Gòn, 1960]
Từ việc đối chứng nhằm so sánh tư liệu đã dẫn của “Hồng Đức bản đồ” bản ICO:891 của nhóm ông Trương Bửu Lâm với:
– Quốc sử triều Nguyễn: “Việt sử thông giám cương mục”
– “Lịch triều hiến chương loại chí”
– “Phương đình dư địa chí”
(thậm chí cả Đại Nam nhất thống chí nhưng quá dài) ba tư liệu đem đối chiếu đều trùng khớp và thống nhất chỉ có một sai lệch nhỏ(Lịch triều hiến chương loại chí đưa một châu thành một huyện).
Từ sự đối chứng trên kết luận:
Thừa tuyên Yên Quảng chỉ có 3 huyện, 4 châu không có 2 châu:
– Như Tích
– Thiếp Lãng
Một câu hỏi đặt ra ở đây là: Nguyễn Trãi đã thừa nhận hai châu Như Tích – Thiếp Lãng thuộc Đại Việt và chỉ sau 34 năm, cùng một thể chế chính trị, lại nhằm vào thời điểm nhà nước phong kiến phát triển cực thịnh, hùng mạnh nhất trong lịch sử phong kiến Đại Việt. Triều đình vua Lê Thánh Tông đã không công nhận hai châu Như Tích – Thiếp Lãng thuộc sở hữu của Đại Việt (một vị vua anh minh đã từng chỉ dụ phải bảo vệ từng m2 đất của cha ông). Cũng cùng một giai đoạn lịch sử này, đã ra đời bộ “luật Hồng Đức”: chỉ riêng một trang Vân Đồn đã có ba điều luật được viết trong bộ luật, gồm: Điều 612, điều 615, điều 616, viết về trang Vân Đồn Yên Quảng.
[Điều 612, 615, 616 – Lê triều hình luật, tr315 – 317, NXB văn hóa, 1997]
Ba điều luật ghi chép giành cho trang Vân Đồn trong bộ luật Hồng Đức, chứng tỏ tầm quan trọng chiến lược và phòng thủ đặc biệt của đất nước tại biên giới đông bắc Đại Việt kỷ nhà Lê.
Đưa ra sự mâu thuẫn giữa hai tác phẩm dư địa chí trên, chúng tôi chưa vội khẳng định tính xác thực nguồn gốc sở hữu của hai châu Như Tích và Thiếp Lãng, mà chỉ nhằm một mục đích dẫn nhập cho những vấn đề về sau, chứng minh TÍNH KHÁCH QUAN MANG TẦM VÓC QUỐC GIA giai đoạn lịch sử này của nhà Lê.
- Những bằng chứng chính xác từ nguồn tư liệu Đại Việt, Trung Hoa, các loại sách dư địa chí, chứng minh nguồn gốc chủ quyền 2 châu Như Tích – Thiếp Lãng.
2.1. Những bằng chứng từ nguồn quốc sử Đại Việt khẳng định nguồn gốc đất đai tại sự kiện số II.
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” kỷ nhà Lê Đại Hành chép(xin lưu ý: Nhà Lê Đại Hành gọi thừa tuyên Yên Quảng là trấn Triều Dương)
“Trước đây ở trấn Triều Dương của ta bọn Văn Dũng làm loạn giết người rồi trốn sang TRẤN NHƯ TÍCH THUỘC KHÂM CHÂU NƯỚC TỐNG. Trấn tướng là Hoàng lệnh Đức chứa giấu.” Vua sai Trấn tướng Triều Dương là Hoàng Thành Nhã đuổi bắt, Lệnh Đức không chịu trả về, nay Nghiên Tẩu đến Như Tích tra ra được chuyện chứa giấu ấy, đem hết bọn trai gái già trẻ đã chứa cộng 113 người, gọi Thành Nhã sang giao cho nhận về.Vua cảm ơn nhà Tống, sai sứ sang tạ ơn”
[Đại Việt sử ký toàn thư, q1, tr237, NXB VHTT, 2004]
Cùng một sự kiện trên “Việt Sử thông giám cương mục” chép:
“Bính Thân, năm thứ 3(996) (Tống năm chí đạo thứ 2) tháng 2, mùa xuân, sai sứ sang nhà Tống. Trước đây, bọn Văn Dũng, dân Trấn Triều Dương phạm tội trốn sang NHƯ TÍCH THUỘC KHÂM CHÂU BÊN TỐNG, được trấn tướng nhà Tống là Hoàng Lệnh Đức chứa chấp. Đến đây Nghiên Tẩu đến trấn Như Tích hỏi biết rõ đầu đuôi về việc chứa phạm nhân, mới đem giao trả ta, tất cả trai gái già trẻ hơn trăm người mà trước đây Hoàng Lệnh Đức đã chứa chấp. Nhà Vua lại bắt 27 người Đán không biết tiếng Trung Quốc đưa sang Quảng Tây giao cho Tống. Nhân tiện sai sứ sang tạ ơn Tống”
[Việt sử thông giám cương mục, q3, tr243, NXB văn sử địa, 1957]
Từ hai lần dẫn bởi hai bộ quốc sử Đại Việt trấn Như Tích thuộc Khâm châu nhà Tống đã đi vào lịch sử cả hai nước Đại Việt và Trung Hoa trước nhà Mạc hơn 500 năm, đồng thời khẳng định chính xác sở hữu ban đầu vùng đất Như Tích thuộc ai.
Qua những ghi chép ở trên, từ năm 996 kỷ Lê Đại Hành khái niệm “biên giới” tại thời điểm lịch sử này cho thấy, từng ngọn núi, dòng sông, tuy còn chưa chuẩn xác tới từng mét đất. Nhưng lãnh thổ Đại Việt và Trung hoa tại khu vực biên giới là khá rõ ràng, ngay cả các chức danh đối ứng giữa hai quốc gia đã rất chuẩn mực: “Trấn tướng Triều Dương” – “trấn tướng Như Tích” các công việc liên quan tới biên giới giữa hai quốc gia đã rất tỉ mỉ và hoàn chỉnh với pháp luật mỗi nước.
Khái niệm “miền biên giới” có lẽ do những biến động chính trị sắc tộc gây nên bởi yếu tố con người, “nhân” – “quả” từ những sự kiện ấy là nội dung diễn biến sự kiện số I ở trên và số II đang khảo cứu.
2.2. Những bằng chứng từ quốc sử Trung hoa khẳng định nguồn gốc đất đai tại sự kiện số II.
2.2.1. Từ “Tống sử”:
“Ba trấn Như Hồng – Như Tích – Đốt Bộ thuộc Khâm châu đều ở ngoài cồn bể. Bọn Bốc Văn Dũng ở trấn Triều Dương thuộc Giao châu can tội giết người, đem gia thuộc chạy sang trấn Như Tích, trấn tướng Như Tích là Hoàng Lệnh Đức cho bọn Văn Dũng ẩn núp ở đó. Lê Hoàn sai tướng Triều Dương là Hoàng Thành Nhã đưa thư sang bắt nhưng Lệnh Đức không cho bắt. Vì có giặc biển vào cướp luôn luôn nên năm Chí Đạo thứ 2 (996). Triều đình cho công bộ viên ngoại lang trực sứ quán là Trần Nghiêu Tẩu làm chuyến vận sứ và nhân tiện đưa chiếu thư cho Hoàn, rồi Nghiêu Tẩu đến Như Tích xét ra được việc dung ẩn bọn Văn Dũng. Nghiêu Tẩu bắt Nam phụ lão ấu của bọn ấy 130 người giao cho quan chức ở trấn Triều Dương và bảo đừng hành hạ chúng. Thành Nhã nhận được người, đưa thư tạ ơn Nghiêu Tẩu. Lê Hoàn bèn dâng biểu cảm ơn và bắt 23 tên giặc biển phái giao nộp Nghiêu Tẩu.”
[Tống sử 448, liệt truyện, tr247, q4 từ tr 5654 – 5663 tài liệu lịch sử, khoa lịch sử, ĐH KHXH&NV. KH: TL/LS.0093]
2.2.2. Từ quốc sử triều Minh
“Minh thực lục” ghi chép về biến động tại hai đô Như Tích – Thiếp Lãng như sau(xin lưu ý: Nhà Tống gọi là trấn Như Tích, nhà Minh dùng từ “đô” Như Tích)
“(867) ngày 20 tháng chạp năm Tuyên Đức thứ 9(19/1/1435) châu Khâm Quảng Đông tâu: “Hai đô Như Tích – Thiếp Lãng tiếp giáp với huyện Vạn Ninh Giao Chỉ, trước đây nhân Lê Lợi phản nghịch, bọn người trong đó là bọn Hoàng Khoan bị cưỡng bức, trợ giúp giặc Man cùng tài sản của dân. Mới đây đem bản mệnh chiêu phủ, bọn Khoan cam tâm nghe lời giặc không tuân theo.”
[Minh thực lục 21, tr2591 – 2592, Tuyên tôn, q115. 8a – 8b, NXB Hà Nội, 2010]
Một văn bản ngoại giao rất quan trọng mà nhà Minh gửi cho nhà Lê vào năm 1442 như sau:
“[917] ngày 8 tháng 3 năm Chính thống thứ 7 (18/4/1442)
Ngày Kỷ Tỵ, sứ thần An Nam Lê Quyến từ giã bệ rồng. Mệnh ban cho quốc vương Lê Lân sắc cùng ban mũ dạ, khăn đội đầu, y phục dệt kim, sắc như sau:
“Trẫm phụng mệnh trời, coi dân 4 cõi hải nội, hải ngoại đều là con đỏ của triều đình, muốn mọi nơi được an sinh lạc nghiệp, không trái với tính trời. Tiên hoàng đế nước ta, thể theo bụng Hoàng thiên dẹp bỏ việc binh, thương xót dân, muốn thiên hạ được nghỉ ngơi, nên đã mệnh cho người đời trước, phong ngươi làm quốc vương An Nam để kế thừa cha ngươi. Đó cũng thể theo đạo trời, với lòng dân thương người vậy. Năm trước: Hoàng Kim Quảng người châu Khâm phủ Liêm Châu Quảng Đông bị người nước ngươi dụ dỗ ngu muội làm điều sai quấy xung 2 đô: THIẾP LÃNG – NHƯ TÍCH phụ về An Nam. Lấy lời sàm mê hoặc cha ngươi, nên cha ngươi (Lê Lợi) cho lập vệ đặt quân tại thôn NHA CÁT. Bắt ép 281 hộ phải theo, xâm chiếm cương vực, dụ hiếp nhân dân, việc này do người dưới tại nước ngươi làm, cha con ngươi không biết được.
Phàm 281 hộ chẳng đáng gây thiệt hại nơi này, để có ích nơi khác, nhưng trọng tín nghĩa không thể dối trời, sắc đến sai bọn Hoàng Khoan, 281 hộ giao cho châu Khâm quản lý. Tội trạng cũng tha không hỏi đến, vệ đã lập hãy bỏ đi như cũ, để thể hiện đạo kính trời, thờ nước lớn, ngươi sẽ được hưởng phúc mãi mãi. Khâm thử”
[Minh thực lục v26, tr1807 – 1808, Anh Tông, tr2a – 2b, NXB Hà Nội, 2010]
2.3. Những bằng chứng từ tư liệu dư địa chí Đại Việt và Trung hoa, khẳng định nguồn gốc đất đai tại sự kiện số 2.
2.3.1. Từ dư địa chí Đại Việt:
Cuốn “An Nam chí lược” do Lê Tắc soạn năm 1333 (đời Trần) ghi chép sự kiện mà quốc sử Đại Việt và Trung hoa đã chép ở trên.
“Nguyên Khâm châu có 3 trấn ở gần bờ biển là: Như Âm (Như Tích), Như Hồng, Xung Bộ. Trước đây có bọn Văn Dũng dân Triều Dương thuộc Giao Châu bị án giết người, rồi đem cả gia quyến trốn qua trấn Như Âm (Như Tích)…”
[An Nam chí lược, q1, TTDĐC,tr359, NXBTN, 2012]
2.3.2. Dư địa chí đời Tống
Trong cuốn “Lĩnh ngoại đại đáp” được soạn năm 1178 của Chu Khứ Phi đời Tống, địa danh Như Tích được viết ra rất nhiều lần, bởi vị trí quan yếu của nó tại biên giới nhà Tống với Đại Việt.
Trong mục: “Khâm, Liêm khê động đô tuần kiểm sứ” chép:
“Khâm, Liêm đều gọi là nơi cực biên, cách cõi nước An Nam không xa. Ngày trước thuyền bè của An Nam đến nhiều ở Liêm, sau vì thuyền đắm nhiều, mới lại đi đến khâm. Nay Liêm châu không cai quản các khê động, còn khi kèm chức khê động là phòng bị An Nam mà thôi. Phía tây Liêm là Khâm, phía tây Khâm là An Nam. Người giao mà đến, đại để đi bằng thuyền nhỏ, đã ra khỏi cảng theo dọc bờ mà đi, không đầy nửa dặm thì vào ngay cảng của Khâm, nếu đến Liêm tất phải qua cảng của Khâm. Trong lúc sang ngang dòng nước, sóng gió nhiều khi dữ, người Giao Chỉ đi đến Khâm từ châu Vĩnh An ở cõi nước ấy, sáng đi thì tối đến Khâm. Ở cửa cảng có đặt trại “Đề Trạo” để những cõi gần nào có thuyền biển sang thì tiết chế. Một ty tuần kiểm ở duyên hải đón và đưa thuyền ấy. Đó là cách phòng bị ở đường biển vậy, còn như ở lục địa thì có 7 động ở ĐỘNG NHƯ TÍCH có đặt đồn thú để giữ vững bờ cõi của ta.”
[Lĩnh ngoại đại đáp, tr17 – 18, Phan Duy Tiếp dịch, TL/LS khoa sử,
ĐH KHXH&NV, KH: LS /TL: 0059]
Chu Khứ Phi mô tả việc dùng người trong quân sự 7 khê động châu Khâm tại biên giới giữa Trung hoa và Đại Việt thời Tống, tại mục: “Động đinh thú biên” chép:
“Dân châu cơ my gọi là “động đinh” họ cường tráng vũ dũng có thể dùng được, tù trưởng ở khê động dùng làm binh vệ, gọi là “Điền Tử giáp”. Quan dùng một người dân ấy không thể được. Duy động Đinh của 7 động ở Khâm châu đi thú biên cho quan vì là quyền lực của 7 động ấy yếu hơn ung quản, cho nên phải nghe theo mệnh lệnh vậy. Xưa một Viên Tri Khâm động trực phòng tuần sứ thần, đem một trăm quan quân đi thú ĐỘNG NHƯ TÍCH để phòng bị Giao Chỉ. Nhân vì quan quân ngược đãi họ, động từ xin không dùng quan quân, xin tự lấy động đinh thay đổi thúc giữ. Bởi thế nên một mình Khâm châu có lính thú động binh”.
[Lĩnh ngoại đại đáp, tr39 – 40, Phan Duy Tiếp dịch TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV, KH: LS /TL: 0059]
Trên đây là những bằng chứng nằm tại các nguồn sử liệu Đại Việt và nhà Tống, nhà Minh, thời gian xuất hiện của các tư liệu đã dẫn này cách năm 1540 là (996 – 1540) là 644 năm.
Chúng tôi không dẫn ra các bằng chứng khác viết sau năm 1540 từ “Việt sử thông giám cương mục”, “Đại Nam nhất thống chí”, “Việt kiệu thư” hay “Thù vực chu tư lục”, bởi xét thấy thật không cần thiết và quá dài.
- Lịch sử trước nhà Mạc 500 năm chứng minh nguồn gốc sở hữu “động” Tư Lẫm thuộc Khâm Châu Trung Hoa.
“Kỉ Hợi năm Chương thánh Gia Khánh thứ 1 (1059) (Tống Gia hựu thứ 4). Tháng 3, mùa xuân… quân ta kéo đến TƯ LẪM DOANH THUỘC KHÂM CHÂU, diễn võ dương uy rồi trở về, việc hành quân này là vì ghét nhà Tống tráo trở”
[Việt sử thông giám cương mục, q3, tr82, NXB văn sử địa, 1959]
Lẽ ra phải dẫn “Đại Việt sử ký toàn thư” trước khi dẫn “Việt sử thông giám cương mục”. Nhưng “Đại Việt sử ký toàn thư” không ghi cụ thể địa danh “Tư Lẫm” (xin lưu ý rằng ở sự kiện số I binh bộ thị lang Lê Văn Thịnh đi sứ bàn xét 2 châu Quy Hóa – Thuận An “toàn thư” chỉ cung cấp địa điểm là trại Vĩnh Bình. Trong khi đó “Cương mục” cung cấp rất chi tiết động “Tư Lẫm” tại sự kiện năm 1059, “toàn thư” chỉ cung cấp địa danh Khâm châu một cách chung chung (một câu hỏi cứ tồn tại, tại sao điều này xảy ra?).
“Đại Việt sử ký toàn thư” chép:
“Kỉ Hợi, chương thánh Gia Khánh năm thứ 1 (1059) (Tống Gia Hựu thứ 2) mùa xuân, tháng 3, đánh Khâm châu nước Tống, khoe binh rồi về, vì ghét nhà Tống phản phúc”
[Đại Việt sử ký toàn thư, t1, tr319, NXB VHTT, 2004]
3.1. Quốc sử Trung hoa “Tống sử”, “Việt Kiệu thư” đời Minh chép cùng 1 sự kiện trên như sau:
“Năm Gia Hựu thứ 4 (1059) Giao Chỉ vào cướp phá QUẢN TƯ LẪM THUỘC KHÂM CHÂU” (Tống dùng đơn vị là “quản”, “quản” tương đương với “động” nhà Minh dùng)
[Tống sử liệt truyện: Giao Chỉ 488, liệt truyện 247, q4, Tr 5654 – 5663, TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV, KH: TL/LS: 0093]
* “Việt Kiệu thư” đời Minh chép sự kiện trên như sau:
“Năm thứ 4 (1059) người Giao Chỉ vào ăn cướp QUẢN TƯ LẪM THUỘC KHÂM CHÂU”
[Việt Kiệu thư, q3 – q4, tr49, TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV, KH: TL/LS 0003]
Với một sự kiện lịch sử xảy ra tại một “động” thuộc nhà Tống tiếp giáp với biên giới Đại Việt – động Tư Lẫm. Sự kiện lịch sử trên cách nhà Mạc 500 năm về trước do chính quốc sử Đại Việt, quốc sử Trung hoa biên chép. Nguồn gốc chủ quyền đất đai mà chúng ta quan tâm càng được khẳng định rõ ràng và cụ thể hơn, tính thống nhất và quá trình liên tục lịch sử vùng đất tại sự kiện lịch sử số II được thể hiện từ nhà Tống (ít nhất từ năm 996) tới nhà Minh trước năm 1427 (996 – 1427).
VỚI NHỮNG TRÌNH BÀY RÕ RÀNG, CỤ THỂ TỪ CÁC NGUỒN DƯ ĐỊA CHÍ VÀ SỬ LIỆU Ở TRÊN, ĐÃ KHẲNG ĐỊNH CHÍNH XÁC NGUỒN GỐC SỞ HỮU ĐẤT ĐAI HAI CHÂU NHƯ TÍCH – THIẾP LÃNG LÀ THUỘC TRUNG HOA, ĐÓ LÀ CHÂN LÝ KHÁCH QUAN KHÔNG THỂ BÀN CÃI.
B – DIỄN BIẾN LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT TẠI SỰ KIỆN II
Năm 1427 là dấu mốc quan trọng trong lịch sử đất nước là năm chấm dứt 20 năm thuộc Minh, chiến thắng vĩ đại của Lê Lợi khắc sâu mãi mãi trong lịch sử dân tộc. Đúng vào thời điểm đó, một loạt vấn đề phức tạp xảy ra tại biên giới đông bắc Đại Việt. Nhằm làm rõ những diễn biến lịch sử tại khu vực trên, chúng tôi sẽ đưa ra những tư liệu lịch sử của nhà Minh ra trước phần dẫn này, việc đó nhằm làm rõ từng giai đoạn cụ thể của sự kiện lịch sử đã xảy ra rồi so sánh với sử liệu Đại Việt, để thấy nguyên nhân là do tư liệu quốc sử Đại Việt không cung cấp bất cứ một nội dung nào liên quan đến sự kiện xảy ra tại vùng đất đông bắc vào năm 1427 tại kỷ nhà Lê.
Trong khi đó, quốc sử nhà Minh ghi chép rất cụ thể các chi tiết sự kiện xảy tại sự kiện lịch sử số II. Như vậy, bắt buộc chúng tôi phải dẫn tư liệu sử nhà Minh ra trước để có thể so sánh từng sự việc xảy ra tại sự kiện số II với quốc sử của nước ta trong giai đoạn lịch sử này.
* Những ghi chép về sự kiện II tại “Minh thực lục”
Ngày 29 tháng 2 năm chính thống thứ 5, tại mục 906, “Minh thực lục” chép:
“[906] Ngày 29 tháng 2 năm Chính thống thứ 5 (1/4/1440).
Tuần vũ Quảng Đông giám sát ngự sử chu giám tâu rằng: Dân châu Khâm bọn Hoàng – Khoan làm phản theo An Nam, chiêu phủ năm này qua năm khác nhưng không phục, xin sắc mệnh cho quan đại thần tại triều đình bàn bạc gửi văn thư hứa miễn thuế lương thực nếu trở về với nghề nghiệp cũ, ngoài ra xin cử 1 đô chỉ huy thanh liêm được việc đến trấn thủ tại châu Khâm. Thiên tử mệnh: số thuế bọn Khoan thiếu, hãy ngưng lại không thu, còn ra sắc dụ cho tam ty Quảng Đông rằng:
“Con người ta không ai là không thích an lạc ghét khổ sở, bọn Khoan đều do các quan lại tại quận huyện tham bạo ngược đãi, bất đắc dĩ phải tìm kế tự toàn. Trẫm từ khi lên ngôi đến nay lấy sự dưỡng dân làm chính sách, các ngươi là những người được tuyển chọn cẩn thận, hãy thể theo ý Trẫm, lấy lòng trung phủ dụ còn có thể cảm hóa được loài vật như cá, lợn huống gì là con người! Các ngươi mỗi người hãy cử quan cao cấp một viên, cùng với tuần vũ, án sát, ngự sử thân đến chiêu dụ, chỉ dùng những lời tử tế cảm hóa, bọn chúng nhớ ơn vui lòng khâm phục, khiến dân được yên. Lại ban một đạo sắc dụ bọn Khoan, giao các ngươi đưa đi. Châu Khâm là nơi quan trọng, hãy bàn bạc chọn trong đám đô chỉ huy 1 tay lão thành thanh liêm, được việc đến trấn thủ, không được phép sinh sự”
[Minh thực lục v25, tr1285 – 1286, Anh tông, q6a, NXB Hà nội, 2010]
Cùng năm 1440, 8 tháng sau, vấn đề châu Khâm lại được xới lên tại triều đình nhà Minh, từ sự việc của hai thủ lĩnh địa phương: Hoàng Khoan và Hoàng Kim Quảng. “Minh thực lục” chép:
“[909] Ngày 15 tháng 10 năm Chính thống thứ 5 (9/11/1440) dân châu Khâm Quảng Đông là bọn Hoàng Khoan từ đầu năm Tuyên Đức (1427) dụ dỗ cư dân hơn 290 hộ cùng ruộng đất hiến cho An Nam. Trước đây đã sắc cho tuần phủ, án sát ngự sử cùng các quan tại tam ty mang sắc phủ dụ nhưng bọn Khoan không tuân. Khảo xét chí thư về châu này từ khí Hán Mã Viện bình định xong (Giao Chỉ), lấy cột đồng làm giới hạn phía tây nam, [Núi] Phân Mao lĩnh giới hạn đó từ đời Hán Vũ đế đến nay đều lệ thuộc châu Khâm. Nay trong vòng núi Phân Mao hơn 300 dặm, trong vòng cột đồng hơn 200 dặm đều do An Nam xâm chiếm.
Nếu như ban sắc dụ vương An Nam trả lại đất đã xâm chiếm thì không cần phải gọi về, vì đã được trả lại.
Bộ binh bàn định như sau:
“Nên đợi đến ngày An Nam sai sứ triều cống sẽ ban sắc cho quốc vương nước này trả lại đất đã xâm lấn. Vẫn biểu dụ bọn Khoan rằng: Nếu tình nguyện đem gia đình trở về sẽ được tha tội” sắc cho lực lượng phòng thủ biên giới. Được hoàng thượng chấp thuận”
[Minh thực lục v25, tr1397 – 1398, Anh tông, q72, tr5a – 5b, NXB Hà Nội, 2010]
Qua 2 mục [906] và [909] trích dẫn trên ta biết:
– Sự kiện xảy ra vào năm 1427.
– Thủ lĩnh Hoàng – Khoan là người cầm đầu trong nhóm.
– Mọi biện pháp chiêu phủ từ triều đình Minh từ 1427 đến 1440 không thành công.
– Số lượng dân sát nhập vào Đại Việt là 290 hộ.
– Nhà Minh muốn giải quyết sự việc bằng con đường ngoại giao.
Năm 1442, sứ thần nhà Lê sang nhà Minh triều cống, vua Minh đã gửi chiếu thư cho vua Lê Thái Tông với nội dung sự kiện tại châu Khâm như sau:
“[917] ngày 8 tháng 3 năm Chính thống thứ 7 (18/4/1442)
Ngày Kỷ Tỵ, sứ thần An Nam Lê Quyến từ giã bệ rồng. Mệnh ban cho quốc vương Lê Lân sắc cùng ban mũ dạ, khăn đội đầu, y phục dệt kim, sắc như sau:
“Trẫm phụng mệnh trời, coi dân 4 cõi hải nội, hải ngoại đều là con đỏ của triều đình, muốn mọi nơi được an sinh lạc nghiệp, không trái với tính trời. Tiên hoàng đế nước ta, thể theo bụng Hoàng thiên dẹp bỏ việc binh, thương xót dân, muốn thiên hạ được nghỉ ngơi, nên đã mệnh cho người đời trước, phong ngươi làm quốc vương An Nam để kế thừa cha ngươi. Đó cũng thể theo đạo trời, với lòng dân thương người vậy. Năm trước: Hoàng Kim Quảng người châu Khâm phủ Liêm Châu Quảng Đông bị người nước ngươi dụ dỗ ngu muội làm điều sai quấy xung 2 đô: THIẾP LÃNG – NHƯ TÍCH phụ về An Nam. Lấy lời sàm mê hoặc cha ngươi, nên cha ngươi (Lê Lợi) cho lập vệ đặt quân tại thôn NHA CÁT. Bắt ép 281 hộ phải theo, xâm chiếm cương vực, dụ hiếp nhân dân, việc này do người dưới tại nước ngươi làm, cha con ngươi không biết được.
Phàm 281 hộ chẳng đáng gây thiệt hại nơi này, để có ích nơi khác, nhưng trọng tín nghĩa không thể dối trời, sắc đến sai bọn Hoàng Khoan, 281 hộ giao cho châu Khâm quản lý. Tội trạng cũng tha không hỏi đến, vệ đã lập hãy bỏ đi như cũ, để thể hiện đạo kính trời, thờ nước lớn, ngươi sẽ được hưởng phúc mãi mãi. Khâm thử”
[Minh thực lục v26, tr1807 – 1808, Anh Tông, tr2a – 2b, NXB Hà Nội, 2010]
Từ mục [917] đã dẫn xuất hiện các sự kiện cụ thể:
– Thủ lĩnh địa phương thứ hai: Hoàng Kim Quảng
– Địa danh cụ thể: hai “đô” Như Tích – Thiếp Lãng
– Nhà Lê đã cho lập vệ(đồn) quân sự tại động Nha Cát (Cát, Liễu Cát, Cá Cát) sau năm 1427.
– Số hộ dân phụ vào An Nam chính xác là 281 hộ.
Xin lưu ý mục [917], “Minh thực lục” vừa dẫn hai địa danh trong “An Nam vũ cống” mà Nguyễn Trãi ghi chép xuất hiện trong văn bản ngoại giao đầu tiên mà nhà Minh gửi cho nhà Lê năm 1442, với nội dung: đòi đất hai châu (đô): Như Tích – Thiếp Lãng đã được sát nhập vào Đại Việt năm 1427.
Từ 2 bộ quốc sử Đại Việt, chúng ta không thể nghiên cứu để có thể tìm ra một bằng chứng hiện hữu nào cho sự kiện hai châu Như Tích – Thiếp Lãng. “Đại Việt sử ký toàn thư” chỉ cung cấp một số dữ liệu chung chung liên quan đến đất đai khu vực Khâm châu sẽ được chúng tôi lần lượt đưa ra sau đây.
2.1. Giai đoạn vua Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông
Ở trên chúng tôi đã đưa ra văn bản ngoại giao đầu tiên nhà Minh gửi cho nhà Lê vào ngày 8 tháng 3 năm Chính thống thứ 7 của nhà Minh. Tức ngày 18/4/1442 (dương lịch), nội dung cốt yếu của chiếu thư này nhằm đòi nhà Lê trao trả đất đai thuộc 2 “đô” (châu) Như Tích, Thiếp Lãng, do các thủ lĩnh địa phương làm phản chạy sang An Nam (nhà Lê).
Về phía nhà Lê, chúng ta chỉ thấy ghi chép trong sử những sứ bộ ngoại giao đi làm nhiệm vụ: “Bàn việc Khâm châu”. Sử không cung cấp bất cứ một tình tiết diễn biến nào thêm nữa( tại sao lại như vậy?).
a, Việc đi sứ lần 1:
Sau 6 tháng nhận được chiếu thư từ nhà Minh(14/4/1442), nhà Lê có sứ bộ sang nhà Minh. Sử ghi chép phái bộ này thực hiện ba nhiệm vụ như sau:
– Tạ ơn cho mũi áo
– Nạp cống, cầu phong, báo tang
– Tâu việc địa phương Khâm châu
Sử chép:
“Nhâm Tuất, năm thứ 3 (1442) (Minh chính thống thứ 7) mùa đông, tháng 10, sai sứ sang nước Minh. Đồng Tri Hải tây đạo Nguyễn Thúc Huệ và thiêm trị thẩm hình viện Đỗ thì Việp sang tạ ơn cho mũ áo, Thi ngự sử Triệu Thái sang, tâu việc địa phương Khâm châu, bọn tham tri Nguyễn Đình Lịch và Phạm Du sang báo tang tham tri Lê Truyền, Đô ngự sử Nguyễn Văn Kiệt, Ngự tiền học sinh cục trưởng Nguyễn Hữu Phu sang cầu phong”.
[Đại Việt sử ký toàn thư, q2, tr185, NXB VHTT, 2004]
So sánh chi tiết nội dung phái bộ sứ thần nhà Lê sang Minh đợt này, chúng tôi xin lưu ý nội dung mục [917] “Minh thực lục” đã dẫn ở phần trên cùng với nội dung mà sứ thần nhà Lê phải đảm trách trong kỳ đi sứ cuối năm 1442.
* Vua Minh ban mũ dạ, khăn đội đầu, y phục dệt kim
– Sứ thần nhà Lê sang tạ ơn cho mũ áo
* Vua Minh gửi chiếu thư đòi đất 2 “đô” Như Tích, Thiếp Lãng thuộc Khâm châu
– Sứ thần nhà Lê sang tâu việc địa phương Khâm châu
Từ sự so sánh trên, chúng ta phần nào hiểu được trình tự diễn biến xảy ra tại khu vực đất đai này, dù sử Đại Việt không cung cấp chi tiết (hay cố tình hoặc can thiệp sử cũ).
b, Việc đi sứ lần 2:
Hai năm sau (1444) sử cung cấp phái bộ đi sứ lần hai nhằm giải quyết đất đai tại khu vực Khâm châu như sau:
“Giáp Tý, năm thứ 2 (1444) (Minh Chính thống năm thứ 9)…
Tháng 11, sai sứ sang nước Minh, Tả thị lang là Đào Công Soạn và ngự tiền chấn lôi quân chỉ huy là Lê Quát sang nộp cống hàng năm. Tham tri đông đạo Nguyễn Lam sang tâu việc: ĐỊA GIỚI KHÂM CHÂU”
[ĐVSKTT, q2, tr189, NXB VHTT, 2004]
Dù rất kiệm chữ, sử chỉ ghi chép: “Việc địa phương Khâm châu” hoặc “Địa giới Khâm châu” cũng có thể gợi ý cho người đọc sử hiểu mức độ về tình hình căng thẳng tranh chấp địa giới giữa hai nước tại khu vực giáp ranh với Khâm châu của nhà Minh.
c, Lần đi sứ thứ 3:
Năm 1447 (5 năm sau) lần đi sứ thứ ba mà phái bộ nhà Lê nhận trách nhiệm tâu việc Khâm châu, sử chép:
“Đinh Mão, năm thứ 5 (1447) (Minh Chính thống thứ 12) …
Tháng 9 ngày 29, sai sứ sang nước Minh ngự sử trung thừa là Hà phủ làm chánh sứ, đồng tri thẩm hình viện là Đinh Lan làm phó sứ, nộp cống hàng năm và tâu việc Khâm châu”.
[ĐVSKTT, q2, tr192, NXB VHTT, 2004]
Như vậy, tại giai đoạn vua Lê Thái Tông, xuất hiện ba phái bộ sứ thần nhà Lê được cử sang nhà Minh tâu việc địa giới Khâm châu vào các năm:
– Năm 1442
– Năm 1444
– Năm 1447
Sử không hề ghi chép chi tiết, nhưng từ sự so sánh giữa quốc sử nhà Minh mà chúng tôi cố ý cung cấp trước, sẽ để người đọc hiểu sự liên quan chi tiết đến các vấn đề mà chúng ta đang quan tâm tại sự kiện lịch sử số II này.
Khu vực biên giới Yên Bang đông đạo Đại Việt trở nên căng thẳng từ sự cung cấp bởi những trang sử tiếp theo chép những sự kiện xảy ra tại đây, cùng ứng phó của triều đình vua Lê Thần Tông giai đoạn này:
“Mậu Thìn, năm thứ 6 (1448) (Minh Chính thống thứ 13).
Biên giới phía đông ngoa truyền rằng, nước Minh sai sứ sang hội khảo địa giới. Vua sai tham tri đông dạo là Trình Dục đến nơi dò xét hư thực, trở về báo cáo. Dục đến biên giới không dò hỏi gì, chỉ nghe lời người đi đường nói về tâu ngay là có quân hai ty khâm sai của phương bắc và quan trấn thủ tổng binh Quảng Đông đem quân và ngựa sang rất nhiều. Vua sai tả khấu Lê Khắc Phục, tả hữu nạp ngôn là Nguyễn Mộng Trừu và Nguyễn Văn Phú, hữu thị lang là Đào Công Soạn, trung thừa Hà Liệt và bọn đồng tri tây đạo Nguyễn Thúc Huệ, Nguyễn Lam, Bùi Cầm Hồ, Trình Dục, phó sử thẩm hình viện Trình Mân, Tham tri nội mật viện Lê Văn đến để hội khám. Lại sai đồng tri phủ hạ Nam Sách là Lê Thiệt đem hơn 1 vạn 2 nghìn quân hội đồng với các quân Trấn Yên Bang phòng bị việc biên giới… cả miền đông đều rối động”.
[ĐVSKTT, q2, tr193 – 194, NXB VHTT, 2004]
2.2. Giai đoạn vua Lê Thánh Tông
Đến thời vua Lê Thánh Tông, khu vực biên giới tại Yên Bang, giáp Khâm châu nhà Minh càng trở nên phức tạp hơn, tác động từ sự tranh chấp đất đai đã đẩy những việc có liên quan giữa hai bên Đại Việt và nhà Minh liên tục xảy ra. Về phía Nhà Lê đã dự báo, tăng cường lực lượng quân sự, cảnh giác cao độ tại khu vực tranh chấp đất đai tại đây:
“Sai đô đốc thiêm sự Khuất Đả đem 500 quân ngũ phủ đến bảo KHẢ LẶC trấn Yên Bang đuổi giặc cỏ, không đuổi kịp rồi về”
Đinh Hợi năm thứ 8 (1467) (Minh Thành hóa thứ 3)
[ĐVSKTT, q2, tr290, NXB VHTT, 2004]
Tại năm 1467 đã xảy ra rất nhiều việc liên quan tới biên giới khu vực đông bắc như việc: thuyền chở lương của nhà Minh trôi dạt vào Yên Bang đông đạo, sử chép:
“Đinh Hợi năm thứ 8 (1467) (Minh Thành hóa thứ 3) ngày 16, quan trấn thủ Yên bang tâu việc thuyền chở lương của người Minh bị dạt đến xứ ấy…
Vua nói: “Các khanh nói tuy là phải, nhưng lỡ ra kẻ gian phản phúc thì sao?” … Rốt cuộc giữ người Minh không cho về”.
[ĐVSKTT, q2, tr278 – 279, NXB VHTT, 2004]
Tác động từ việc tranh chấp đất đai tại biên giới Yên Quảng giáp Khâm châu nhà Minh, nhà Lê đã dùng những biện pháp tăng cường phòng thủ cùng việc cảnh giác cao độ giành cho khu vực biên giới. Cùng năm đó, ngày 20 vua Lê Thánh Tông sắc dụ cho các quan quân trấn thủ biên giới trong đó có Yên Bang, chỉ dụ viết:
“Đinh Hợi năm thứ 8 (1467) (Minh Thành hóa năm thứ 3) sắc dụ các quan Trấn Thủ, phó tổng binh và thổ quan ở các xứ Lạng Sơn, Yên Bang, Bắc Bình rằng: “Quan giữ bờ cõi của triều đình, cố nhiên phải giữ đất yên dân đánh ngăn giặc ngoài, đó là chức phận của mình”.
[ĐVSKTT, q2, tr289, NXB VHTT, 2004]
Vào năm 1467 này, những dòng chữ đầu tiên mà quốc sử Đại Việt chép xuất hiện địa danh một trong bốn động thuộc hai châu Như Tích – Thiếp Lãng: Đó là bảo Khả Lặc (xin lưu ý: Kim Lặc = Khả Lặc = Tư Lặc).
Sử chép:
“Đinh Hợi năm thứ 8 (1467) (Minh Thành hóa năm thứ 3) sai đô đốc thiêm sự Khuất Đả đem 500 quân ngũ phủ đến BẢO KHẢ LẶC trấn Yên Bang đuổi đánh giặc cỏ, không đuổi kịp, rồi về”.
[ĐVSKTT, q2, tr290, NXB VHTT, 2004]
Chúng ta biết rằng vào thời điểm năm 1467 cũng là năm triều đình vua Lê Thánh Tông bắt đầu soạn bộ “Hồng Đức bản đồ”. Sử liên tục ghi chép những sự kiện nóng xảy ra tại khu vực Yên Bang, cùng các biện pháp quân sự mà triều đình nhà Lê đưa ra nhằm đối phó, củng cố và phòng thủ biên giới.
Sử chép:
“Năm Đinh Hợi thứ 8 (1467) Minh Thành hóa năm thứ 3)…ngày 16 bàn đặt vệ quân ở trấn Yên Bang vì là đất ấy độc địa, phòng khi có việc cảnh cấp ở biên giới thì đường xa ngăn trở không ứng cứu kịp”
Lần thứ hai quốc sử cung cấp địa danh KHẢ LẶC:
“Giặc cỏ đánh bảo KHẢ LẶC trấn Yên Bang, sai đô đốc thiêm sự tây quân phủ là Khuất Đả đem 1000 quân ngũ phủ, và sai thêm quân hai ty Điện tiền và hai ty hiệu úy đi đánh. Cho gọi thái sư Đinh Liệt, thái bảo Nguyễn Lỗi và Lê Niệm và ngũ phủ Trịnh Văn sái vào cửa Gia Hựu họp bàn phương kế đánh giặc cỏ lại cử kiêu vệ diệp tổng tri là Lê Công Nghi đem quân ngũ phủ đến cứu. Sai bọn đô đốc đồng tri nam quân phủ Nguyễn Đức Trung đi trông coi đánh giặc cỏ ở Yên Bang cho phép chém trước tâu sau. Phát 3 vạn thăng gạo kho, sai người phủ trong đô làm lương chở đến trấn Yên Bang để cấp cho quân ăn”
[ĐVSKTT, q2, tr293, NXB VHTT, 2004]
Quốc sử Đại Việt không hề ghi chép bất cứ một tình tiết nào liên quan đến khu vực đất đai hai châu Như Tích – Thiếp Lãng và diễn biến xảy ra năm 1427 của bốn thủ lĩnh bốn động thuộc Trung hoa chạy sang nhà Lê. Nhưng qua hai giai đoạn lịch sử của nhà Lê do sử cung cấp:
– Giai đoạn vua Lê Thái Tông, Lê Thần Tông
– Giai đoạn vua Lê Thánh Tông, sự kiện lịch sử số II luôn tìm thấy những ghi chép việc tranh chấp đất đai giữa hai nhà nước Đại Việt và Trung Hoa tại biên giới đông bắc. Các sự kiện này đã được thể hiện trong công việc ngoại giao cùng với việc đối phó bằng quân sự tại nơi xảy ra tranh chấp quyết liệt, nhất là đồn quân sự Khả Lặc.
Sử chép tiếp vấn đề tại Khả Lặc lần thứ 3:
“Tháng 8, khâm sai quyền lại khoa cấp sự trung, nghiêm nhân thọ hặc tâu tổng binh trấn Yên Bang là Lê hối không biết trù liệu đánh giặc và đốc tướng Khuất Đả đuổi đánh thất cỏ đến phải thua. Sắc cho Nhân Thọ đi xét hỏi và bắt đưa về kinh” (Khuất Đả thua trận ở bảo Khả Lặc)
[ĐVSKTT, q2, tr293, NXB VHTT, 2004]
Xin được chú ý rằng: Bảo Khả Lặc mà chúng tôi liên tục dẫn ra ở trên “Việt sử thông giám cương mục” chú thích bảo Khả Lặc như sau:
“Lời chua: Thành Khả Lặc, tức sở Kim Lặc thuộc sở thủ ngữ kinh lược sứ ở đô ti An Bang”.
[VSTGCM, q4, tr1064, NXB văn sử địa, 1959]
Một địa danh quan trọng trong 4 động liên quan tại sự kiện số II xuất hiện trong quốc sử Đại Việt: Động Kim Lặc
Mức độ xuất hiện sự kiện và những diễn biến căng thẳng tại vùng đất đông bắc Đại Việt với việc thay đổi nhân sự, cùng việc củng cố phòng thủ đã được triều đình vua Lê Thánh Tông thực hiện:
“Lấy thân vệ tổng tri Nguyễn Đông làm phó tổng binh trấn thủ Yên Bang kiêm thừa tuyên sứ ty. Lấy hàn lâm viện thị tộc học sỹ quyền phó đô ngự sử đài là Đào Tuấn làm thái bộc tự khanh quyền Yên Bang đẳng xứ tán trị thừa tuyên sứ ty tham chính tri bản vệ quân sự. Quyền đô đốc đông quản phủ Trịnh Công Lộ từ trấn Yên Bang về, dâng sớ về việc tiện nghi 4 điều:
- Lập doanh bảo Tân yên Vạn Ninh để chống giặc ngoài
- Tuyển đặt hương trưởng làm giáp thủ để trông coi lẫn nhau
- Chọn người có tài cán văn võ làm quan trấn thủ
- Lấp đường các quan ải, không cho đốn chặt cây cối để mở thông đường đi mà làm mất thế hiểm trở.”
Hoặc:
“Dụ cho đô đốc đồng tri Nguyễn Đức Trung tạm trấn thủ Yên Bang. Sai bọn tổng binh Nguyễn Văn Đàm đến Yên Bang đánh giặc dưới quyền tiết chế của Nguyễn Đức Trung”.
[ĐVSKTT, q2, tr295, NXB VHTT, 2004]
Tần xuất sự kiện diễn ra tại Yên Bang, chiếm tới 30% sự vụ giai đoạn này của triều đình nhà Lê. Tới cuối năm 1467, sự việc tại khu vực này, càng diễn ra những tình tiết mới căng thẳng, dồn dập hơn.
Sử chép:
“Dời quân dinh của trấn thủ Yên Bang đến Bài Lẫm”
[ĐVSKTT, q2, tr297, NXB VHTT, 2004]
Qua ghi chép trên từ quốc sử xuất hiện một địa danh quan trọng thứ 2: Bài Lẫm, 4 động liên quan tới sự kiện lịch sử số II mà chúng tôi cố gắng đưa ra những dẫn chứng chính xác nhất, nhằm đưa sự kiện số II trở về vị trí sự thật của lịch sử, thì đã có 2 địa danh trong 4 động xuất hiện trong quốc sử Đại Việt, dù đã bị thay từ đầu (Tư = Bài), (Kim = Khả) còn giữ lại 2 từ sau; (Lẫm) và (Lặc).
Một năm sau sử chép:
“Mậu Tý năm thứ 9 (1468) (Minh thành hóa thứ 4)…
Tạ Chủng tâu việc các châu Vĩnh An, Vạn Ninh bị giặc bắt người cướp của”
[ĐVSKTT, q2, tr307, NXB VHTT, 2004]
Vào năm 1472, sự kiện tranh chấp đất đai nóng bỏng từ khu vực biên giới châu Vạn Ninh – Yên Bang vẫn giữ nguyên mức độ. Sử chép:
“Nhâm Thìn năm thứ 8 (1472) (Minh thành hóa thứ 8)…
Tháng 12, sắc dụ bọn thái bảo kiến dương bá Lê Cảnh Huy rằng: “Nhận được tờ tâu của trấn Yên Bang nói là người Minh sai quân đi lối Quảng Tây để hội khám sao mà nhiều thế. Ngươi phải hỏa tốc sai người đi thăm dò sự tình, nếu thấy sự thể hơi khác thì lập tức làm tờ tâu cho các xứ họp quân để phòng giữ”.
[ĐVSKTT, q2, tr342, NXB VHTT, 2004]
Với sự cung cấp từ quốc sử Đại Việt, những diễn biến thực tế xuất hiện tại biên giới Yên Bang đông đạo, giai đoạn lịch sử này của nhà Lê, chúng tôi xin tóm tắt những sự kiện lịch sử đã xảy ra như sau:
* Giai đoạn vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, sau năm 1440 có ba lần sứ thần nhà Lê sang nhà Minh tâu việc địa giới Khâm châu.
* Giai đoạn vua Lê Thánh Tông: Xung đột từ tranh chấp đất đai tại vùng đất hai châu Như Tích – Thiếp Lãng xảy ra liên tục với tần suất ngày càng dữ dội. Nhà Lê liên tục phải ứng phó với “giặc cỏ” thực chất là những nhóm quân sự cải trang mà nhà Minh tương kế tựu kế đánh vào vùng đất hai châu này, nhất là đồn Khả Lặc (Tư Lặc – Kim Lặc) và đồn Bài Lẫm (Tư Lẫm) của nhà Lê chiếm giữ do bốn động trưởng của nhà Minh giao nộp.
Sự kiện bốn động thuộc hai châu Như Tích – Thiếp Lãng không được giải quyết bằng con đường ngoại giao giữa nhà Lê và nhà Minh từ (1427 – 1527) tới khi nhà Mạc ra đời năm 1527: Đã là 100 năm tròn, nhà Mạc đón nhận những tồn tại lịch sử vùng đất tranh chấp này từ 100 năm trước đó.
Những địa danh thuộc Khâm châu Trung hoa nằm sát biên giới Đại Việt, đã được “Lĩnh ngoại đại đáp” ghi chép cụ thể:
“Từ Ung Châu dần về phía Đông nam gọi là Khâm châu, phía Tây Nam của Khâm châu liền cõi với Giao Chỉ, đường lục (nội địa) thì có 7 động ngăn trở, đường thủy thì thuyền bé đi thông được”
[Lĩnh ngoại đại đáp, tr6, TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV, Phan Duy Tiếp dịch, KH: LS/TL 0059]
Hoặc: Tại mục “Động Đinh thú biên” chép:
“Duy động đinh của 7 động ở Khâm châu đi thú biên cho quan vì là quyền lực của 7 động ấy yếu hơn ung quản”…
[Lĩnh ngoại đại đáp, tr39 – 40, TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV, Phan Duy Tiếp dịch, KH: LS/TL 0059]
Theo “Khâm châu chí” sách dư địa chí địa phương đời Minh vùng biên giới của Minh giáp Đại Việt có 3 “đô” đó là:
– Đô Như Tích
– Đô Thiếp Lãng
– Đô Thìn La
Tại mục “Tỉnh Quảng Yên” – “Phương đình dư địa chí” chép:
“Nay xét sách: “Dư kỷ địa thắng” thì trại “Như Tích” ở phía Tây Khâm châu 160 dặm, cách châu Vĩnh An của Giao Chỉ 20 dặm, giữa trên đỉnh núi cao, thế rất hiểm trở, trước đặt trại (đồn quân sự) để quản hạt 7 động” và sách “thống chí” chép: phía tây châu có Như Tích, Cát (Liễu Cát), Chiêm Lãng, Tư Lẫm, Cổ Sâm, Thời La. Bảy động đầu nhà Tống đều đặt Động trưởng, niên hiệu Hồng Vũ nhà Minh mới đặt chức Tuần Tư ở Như Tích để thống hạt cả, đất ấy phía bắc giáp hai sông đông tây, phía Nam giáp Giao Chỉ. Năm thứ Mười bốn niên hiệu Vĩnh Lạc, lại đặt thêm chức Vỹ đào Tuần tư, năm thứ 2 niên hiệu Tuyên Đức, các động: Tư Lẫm, Thời La, Cổ Sâm, Cát làm phản phụ vào nước Giao Chỉ. Năm thứ 19, niên hiệu Gia Tĩnh, Mạc Đăng Dung cầu hòa giả lại đất bốn động cho nhà Minh”
[Phương Đình dư địa chí. tr237, NXB tự do Sài Gòn, 1960]
Tại mục “Tỉnh Quảng Yên”, “Đại Nam nhất thống chí” chép:
“Khâm Châu Chí chép: 7 động (Chiêm Lãng, Thìn La, Tư Lặc, Cổ Sâm, Cá Cát, Tư Lẫm, La Phù) nguyên là đất 3 quận (Thìn La, Chiêm Lãng và Như Tích)”
[Đại Nam nhất thống chí, q2, tr1299, NXB lao động, 2012]
Đối chiếu cả “Phương Đình dư địa chí” qua tác phẩm “Dư Kỷ địa thắng” và “Đại Nam nhất thống chí” dẫn từ tác phẩm “Khâm Châu chí” ta biết:
Vùng đất Khâm Châu giáp biên giới Đại Việt có 7 động là điều không thể bàn cãi. 7 động này thuộc 3 “đô” (quận, quản, trấn):
– Như Tích
– Thiếp Lãng
– Thìn La
3 “đô” quản 7 “động”. Sự phân bố 7 “động” trong 3 “đô” như sau:
- “Đô” Như Tích có 4 “động”:
– Động Liễu Cát
– Động La Phù
– Động Kim Lặc
- “Đô” Thiếp Lãng có 2 “động”:
– Động Thiếp Lãng (Xin lưu ý tên “động” trùng với tên của “đô”)
- “Đô” Thìn La có 1 “động”:
[Theo “Khâm Châu chí” – PGS – TS Đinh Khắc Thuân – Lịch sử triều Mạc, 2012].
Tại Sự kiện xảy ra năm 1427, chỉ có 4 “động” chạy sang với nhà Lê:
– Tư Lẫm
– Cổ Sâm
– Liễu Cát
– Kim Lặc
Trong đó: Ba “động”: Tư Lẫm, Liễu Cát, Kim Lặc thuộc vào “đô” Như Tích
Một “động”: Cổ Sâm thuộc “đô” Thiếp Lãng tham gia sự kiện số II.
Độ chính xác cuối cùng về mặt từ ngữ sự kiện bốn “động” này là:
– Chỉ có 4 “động”: Tư Lẫm, Kim Lặc, Liễu Cát, Cổ Sâm thuộc 2 “đô” Như Tích, Thiếp Lãng tham gia sự kiện II. Từ trước đến nay nhiều sách viết không thống nhất và sai lệch [ngay cả “An Nam chí nguyên” cũng viết sai lệch] nguyên nhân là do việc dùng từ “Thuộc” và từ “Và”.
Ví dụ: 4 “Động”….thuộc 2 “Đô” Như Tích, Thiếp Lãng là đúng, chính xác.
4 “Động”….và hai “Đô” Như Tích, Thiếp Lãng là sai, không chính xác.
III. NHÀ MẠC RA ĐỜI VÀ SỰ KIỆN 2 CHÂU NHƯ TÍCH – THIẾP LÃNG
Nhà Mạc ra đời thay thế nhà Lê quản lý và điều hành Đại Việt, nhà Mạc kế thừa từ nhà Lê vùng đất hai châu Như Tích – Thiếp Lãng, nghĩa là nhà Mạc kế thừa những tồn tại diễn biến lịch sử tại vùng đất nói trên 100 năm về trước (1427 – 1527).
- Những diễn biến lịch sử liên quan đến số phận 4 động: Kim Lặc, Tư Lẫm, Cổ Sâm, Liễu Cát từ 1527 đến 1540.
“Minh sử” cung cấp cho chúng ta biết việc tri châu Khâm châu: Lâm hy nguyên là người đầu tiên dâng sớ lên Minh Thế tông đòi lại bốn động này cho Trung hoa.
“Minh sửs” chép:
“Ông đang làm tri châu ở Khâm châu thì có việc đánh An Nam. Ông đề nghị đòi lại 4 động mà An Nam chiếm đoạt ngày trước”.
[Minh sử, ltr, t43, q103, tr89, TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV.
KH: LS/TL 0032]
Cùng một sự việc đó “Minh thực lục” đã chép cụ thể việc Lâm Hy Nguyên tri châu Khâm châu là người khởi xướng việc đòi lại đất bốn động này (khi đó Lâm Hy Nguyên đã mất chức tri châu tại đây):
“[1288] ngày 10 tháng 1 năm Gia Tĩnh thứ 21 (16/12/1542)…
Lời tâu đưa xuống bộ binh, được bộ này đồng ý và phúc tâu rằng:
“Người đầu tiên bàn xin lấy lại 4 động này là thiêm sự Lâm Hy Nguyên, nay đã bãi chức, nhưng công không nên quên” chiếu chấp nhận và thưởng cho Hy Nguyên tiền và lụa”
[Minh thực lục v82, tr5295 – 5296, Thế tông, q268, tr3a – 3b, NXB Hà Nội, 2010]
Mùa xuân năm 1540 Mao Bá Ôn điều quân áp sát biên giới Đại Việt, sự việc bốn động của Khâm châu được “Minh sử” chép:
“Bá Ôn đóng quân ở biên giới đưa hịch dụ người Giao Chỉ, ai bắt được bố con Đăng Dung thì được trọng thưởng. Đăng Dung sợ, xin bó thân chịu tội TRẢ LẠI 4 ĐỘNG CỦA KHÂM CHÂU và đời đời xưng thần phụng cống”
[Minh sử, t48, q120, tr67a – 74a, tờ 74, tr148 (bản dịch) .TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV, KH: LS /TL 0032]
Nhà Mạc ra đời năm 1527, đặt quyền quản lý đất đai, dân số, chức lệnh và quân sự trên bốn động: Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát thuộc hai “châu” Như Tích và Thiếp Lãng – Khâm châu (thời gian, từ năm 1527 đến năm 1540). Nhằm giải quyết nút thắt lịch sử và tránh một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn từ phương bắc. Nhà Mạc phải chấp nhận một trong những yêu cầu từ phía nhà Minh trả lại đất đai bốn động này, mà “Minh sử” đã chép:
“Ông (Lâm Hy Nguyên) đề nghị đòi lại 4 động mà An Nam chiếm đoạt ngày trước”.
[Minh sử ltr, t43, q103, tr89 (bản dịch) TL/LS khoa sử,
ĐH KHXH&NV, KH: TL/LS 0032]
Trong văn bản ngoại giao mà Mạc Văn Minh cùng các tù trưởng Đại Việt đến kinh đô nhà Minh, sau ngày 29/4/1541, biểu chép:
“[1232] ngày 4 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 20 (29/4/1541) mới đây thần nghe tri châu châu Khâm tỉnh Quảng Đông Lâm Hy Nguyên xưng rằng các động Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát thuộc 2 đô Như Tích, Thiếp Lãng là đất cũ của châu Khâm, nếu đúng như vậy thần xin vâng lời”
[Minh thực lục, tr4196 – 4973, thế tông, t248, tr1b – 5a, tr216,
Minh thực lục quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, NXB Hà Nội, 2010]
Văn bản ngoại giao của nhà Mạc được chuẩn bị trước giai đoạn giữa năm 1540. Nhưng đầu năm 1540, trước sức ép quân sự trên toàn tuyến biên giới Đại Việt. Bốn thủ lĩnh cai trị bốn động: Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát đã đồng loạt quay về với chính đất nước họ. Hành động này của các tù trưởng bốn động nằm ngoài ảnh hưởng của nhà Mạc vào thời điểm đó, bốn thủ lĩnh địa phương tại đây đã là hàng cháu (3 hoặc 4 đời) đối với Hoàng Khoan, Hoàng Kim Quảng, Hoàng Kiến, Hoàng Tử Kiều (thế tập).
“Thù vực chu tư lục” cung cấp vấn đề này qua tấu gửi – Minh thế tông của Mao Bá Ôn:
“Các chức hành lệnh ở 4 động: Tư Lẫm, Cổ Sâm, Liễu Cát, Kim Lặc của Khâm châu nguyên thuộc An Nam. Xin chiếu theo nguyên ngạch chiếu quan mà biên vào sổ quan của Khâm châu, cho ưu đãi như hiện tại. Chờ sau 3 năm cấp lương theo cấp bậc”.
[Thù vực chu tư lục, tờ 141 – 142 (bản dịch Trần Lê Hữu), TL/LS
khoa sử, ĐH KHXH&NV, KH: LS/TL 0089]
Năm 1427, bốn động trưởng của bốn động Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát đem đất, đem dân chạy sang với nhà Lê. Nhà Lê phong bốn động trưởng đó với chức danh là: Kinh lược sứ, kinh lược sứ đồng tri (là chức danh cấp phó của kinh lược sứ, võ quan hàm lục phẩm), thiêm sự, được nối đời (thế tập) giữ đất và cho bốn động này thuộc vào châu Vạn Ninh – Đại Việt.
Từ sự ưu đãi của nhà Lê, nhà Lê chấp nhận sự quản lý truyền thống (thế tập) tại bốn động đã giúp nhà Lê quản lý và đặt sự cai trị của mình lên vùng đất ấy 100 năm (1427 – 1527).
Đầu năm 1540, khi bốn động trưởng đầu hàng Mao Bá Ôn và cùng kéo nhau trở về với nhà Minh, Mao Bá Ôn đã đề nghị:
– Giữ nguyên chức tước nhà Lê phong cho bốn động trưởng.
– Giữ nguyên chế độ ưu đãi (hàm lục phẩm) với bốn vị động trưởng tại đây.
Phúc đáp lời tâu của Mao Bá Ôn, chiếu thư của Minh Thế Tông viết:
“Đất đai bốn động đã dâng trả lại nguyên là biên giới của ta, chuẩn cho thu vào bản đồ. Sức cho nha môn tuần phủ Lưỡng Quảng phải ưu đãi tử tế. Những người có tội (chạy sang nhà Lê) ĐÃ ĐẦU HÀNG (bốn vị động trưởng họ Hoàng đầu hàng nhà Minh khi Mao Bá Ôn đem quân tới biên giới) đều được khoan tha”.
[Thù vực chu tư lục, tờ 145 (bản dịch Trần Lê Hữu), TL/LS khoa sử,
ĐH KHXH&NV, KH: LS/TL 0089]
Hành động tự nguyện quay trở về với nhà Minh của bốn vị động trưởng, còn được mô tả chi tiết từ “Minh thực lục”:
“[1238] Ngày 10 tháng 1 năm Gia Tĩnh thứ 21 (135/12/1542)…
Mạc Phúc Hải sai quan thuộc ty tuyên vệ là bọn Nguyễn Điển Kính dâng sản vật địa phương, biểu văn, nạp cống, trả lại bốn động cho châu Khâm. Thái kinh tâu rằng: bốn động hấp nhiễm phong tục di đã lâu, sợ chưa thuần nhất hướng theo sự giáo hóa, xin đặt đồn tại Hà Châu, đem ty tuần kiểm trước đây đặt tại châu Khâm dời đến đồn này, để khống chế các Di và dẹp tàn dư bọn ác, khiến DÂN MỚI QUY PHỤ có chỗ nương dựa không còn lo sợ”.
[Minh thực lục, v82, tr295 – 296, thế tông, q268, tr3a – 3b, Minh thực lục
quan hệ Trung Quốc – Việt nam, tr221, NXB Hà Nội, 2010]
“Quy” là từ Hán Việt nghĩa là quay lại, trở về: “Quy phụ”, từ 2 lời dẫn trên càng rõ hơn hành động cuối cùng của bốn động trưởng bốn động: Tư Lẫm, Cổ Sâm, Kim Lặc, Liễu Cát đầu năm 1540 khi họ đồng loạt quay trở về Trung hoa.
Nhà Mạc đứng trước một tình huống đã rồi của sự việc trên, nhà Mạc trả lại bốn động là trả lại đất của nhà Minh do bốn động trưởng bốn động: Tư Lẫm, Cổ Sâm, Kim Lặc, Liễu Cát, thuộc 2 “đô” Như Tích – Thiếp Lãng – Khâm châu – Quảng Đông – Trung hoa chạy sang nhà Lê năm 1427. Trước khi nhà Mạc ra đời 100 năm, thực chất việc nhà Mạc trả đất đai bốn động cho nhà Minh nằm trên giấy tờ ngoại giao, còn trên thực địa là đất khống hoàn toàn.
Nhà Minh thu hồi được số đất đai bốn động năm 1540 từ nhà Mạc trên phương diện ngoại giao. Nhưng những diễn biến xảy ra sau 1540 ảnh hưởng tới xã hội, văn hóa, phong tục cùng việc phòng thủ quân sự tại khu vực bốn động trên vẫn âm ỉ vài chục năm sau, “Minh thực lục” chép:
“[1306] ngày 26 tháng 6 năm Vạn Lịch thứ 38 (14/8/1610) bốn động của châu Khâm vị trí tại phía Tây, tiếp giáp với thập đại sơn, dân nhiễm phong tục của Di, khuôn phép phong tục Hán khó thi hành. Triều trước đặt ra thổ ty, cấp cho ấn tín cùng thẻ bài, dẫu triều này thay bằng động trưởng. Vào thời Tuyên Đức (1427) làm phản sát nhập vào đất di Giao chỉ, vào năm Gia Tĩnh thứ 21 (1540) mới trở lại bản đồ [Trung Quốc] hàng năm nạp tiền thuế đinh, nhưng có nhiều thiếu thuế, trong động có bọn gian thường cấu kết với người Di (An Nam) gây mối lo. Động trưởng chức vị thấp, không thể kiềm thúc, nay bàn mỗi động đặt một thổ ty cùng với động trưởng làm việc”.
[Minh thực lục, v117, tr8918 – 8921, thần tông, q472, tr8b – 9a,
Minh thực lục – quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, tr256, NXB Hà Nội, 2010]
Xuyên suốt cả quá trình dẫn giải trên, chúng tôi đã chứng minh lịch sử diễn biến khách quan của sự kiện II và xin khép lại sự kiện lịch sử số II tại đây.
Đầu mối của sự kiện số II xảy ra tại biên giới đông bắc Đại Việt đến nay đã tròn 600 năm (1427 – 2017), trong đó 100 năm đã âm ỉ cháy trong chính sách đối nội, đối ngoại của nhà Lê. Rồi nó bùng phát dữ đội 13 năm dưới chính quyền nhà Mạc (1527 – 1540), cộng tất cả thời gian hai thời kỳ lịch sử ấy tròn 113 năm. Để có thể tổng kết sự kiện I và sự kiện II một cách tổng quát, xin xem trên sơ đồ mô tả sơ lược sự kiện lịch sử số I và số II sau:
Trên trục hoành thời gian (t) biểu đồ thăng giáng của của sự kiện I và sự kiện II được miêu tả bằng các mũi tên hướng ra và hướng vào của sáu nhân vật sống cách nhau hơn 400 năm nhưng bản chất hành động giống nhau, tại hai quốc gia khác nhau.
Có người lập luận rằng: Cứ cho rằng nhà Mạc không cắt một mét vuông đất nào của đất nước cho nhà Minh. Nhưng bốn động mà họ tự nguyện giao nộp cho nhà Lê là của ta, thuộc về ta, ta đâu có xâm chiếm của họ?… Vì thế nhà Mạc phải có trách nhiệm gìn giữ bảo vệ bốn động đó. Về vấn đề này, chúng tôi cho rằng: Dù bốn động trưởng bốn động này không tự nguyện quay trở lại với chính nước họ, thì nhà Mạc bắt buộc phải trả lại nhà Minh. Đấy là một điều khoản nhằm chấm dứt chiến tranh tránh cho đất nước một cuộc ngoại xâm quy mô lớn từ phía nhà Minh. Nhà Mạc đã từng bảo vệ thành công 13 năm bốn động này với những lực lượng quân sự được triển khai tương tự như thời nhà Lê. Tuy nhiên chúng ta (hậu thế) không thể mặc cả với tiến trình lịch sử khách quan của nhà Mạc đã từng diễn ra (như chúng tôi đã trình bày).
Đất nước ta nhỏ bé nằm sát cạnh một đất nước Trung Hoa khổng lồ, một dân tộc người Hán, dân tộc đó với tư tưởng Hán hóa cao độ từ 5000 năm lịch sử của họ. Đế quốc Mông Cổ làm mưa làm gió đến cả châu Âu, chiếm đóng toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa, nhưng chính đội quân xâm lược ấy về sau cũng bị Hán hóa. Đến ngày nay: Hoàng Sa, một phần Trường Sa của đất nước chúng ta cũng đang bị xâm chiếm, với những toan tính Hán hóa đường chín đoạn âm mưu độc chiếm biển Đông. Ông cha, tổ tiên chúng ta giữ gìn, bảo vệ được đất nước, nền văn hóa Việt này cho con cho cháu là sự đúc kết kinh nghiệm đối ứng trước một người hàng xóm khổng lồ từ hàng ngàn năm qua. Từ kỷ nhà Lý, vua Lý Thánh Tông sau cuộc tấn công Kháo Túc bị thất bại, quân Tống còn cách kinh thành Thăng Long vài chục dặm. Vua Lý đã dùng biện pháp: “Dùng biện sỹ để bàn hòa, không nhọc tướng tá, không tốn máu mủ mà bảo an được tông miếu”. Kiều Văn Ứng nhà Lý được cử đi sứ sang dinh Quách Quỳ (đóng tại phía bắc sông Như Nguyệt), lần một không giải quyết được yêu cầu của vua Lý. Lần đi sứ thứ hai, vua Lý phải chấp nhận một điều kiện (mang tính phô trương của Tống): [chỗ nào quân Tống đã chiếm tức là đất của Tống].
Chúng ta chỉ có thể góp phần đưa những sai sót lịch sử, sai lệch lịch sử trở về đúng giá trị chân chính của nó, đồng thời góp phần nhận dạng: “lịch sử nhận thức” tồn tại trong lịch sử. Chúng ta không thể và càng không thể mặc cả với tiến trình khách quan của lịch sử nói chung và lịch sử nhà Mạc nói riêng.
TÓM LƯỢC SỰ KIỆN LỊCH SỬ SỐ II
Phần IV: Sự kiện số III
Cuốn “Đại Việt thông sử” được viện sử học xuất bản năm 2007 là một tác phẩm sử học viết theo thể kỷ truyện. Lịch sử nhà Mạc được viết dưới tiêu đề “Nghịch thần truyện”, tại trang 423 và 426 của sách cung cấp một sự kiện xảy ra tại giai đoạn vị vua thứ năm nhà Mạc chấp chính, vua Mạc Mậu Hợp, “Thông sử” chép:“Niên hiệu Quang Hưng thứ 5 (1582)… Nhà Minh đưa tờ công văn tới, nói về ranh giới nước ta và Trung Hoa tại địa phận xứ Lạng Sơn. Mậu Hợp sai đô ngự sử Đặng Vô Cạnh tới đó hội khám định đoạt.
Ngày 26, Mậu Hợp sai sứ tới nhà Giáp Trưng Triệu Giáp Trưng đi phúc định lại ranh giới…”
[Đại Việt thông sử, tr423 – 426, viện sử học, NXB VHTT, 2007]
Từ những tình tiết mà sử chép ở trên, có lẽ sẽ là một hoạt động hết sức bình thường của một triều đại phong kiến Đại Việt trong việc đối nội, đối ngoại thường ngày. Nhưng nó không “bình thường” đối với những sự kiện lịch sử của nhà Mạc, vì khi khai thác các tác phẩm quốc sử, dư địa chí Đại Việt khác nhau, chúng tôi không phát hiện bất cứ một chi tiết nào viết về sự kiện này của nhà Mạc.
Tìm đọc các tác phẩm như “Việt Kiệu thư”, “Thù vực chu tư lục” xuất hiện vào đời Minh Trung hoa cũng không thấy ghi chép sự kiện nhà Mạc cùng nhà Minh phân định biên giới giữa hai nước. Song song với việc trên, tìm trong các tác phẩm nghiên cứu lịch sử vương triều Mạc cũng không tìm thấy một dòng chữ nào ghi chép hay đề cập tới sự kiện này.
Năm 2010 nhân kỷ niệm đại lễ 1000 năm Thăng Long, nhà xuất bản Hà Nội cho ra mắt tủ sách Thăng Long ngàn năm văn hiến trong đó có hai bộ sách:
– “Minh thực lục quan hệ Trung Quốc – Việt Nam thế kỷ XIV – XVII”
– “Thanh thực lục”
Đây là một công trình lớn tốn nhiều công sức, thời gian, tiền của do học giả Hồ Bạch Thảo thực hiện gần 10 năm ở nước ngoài. Song cùng học giả Hồ Bạch Thảo là nhà nghiên cứu Phạm Hồng Quân và Trần Văn Chánh thực hiện công việc hiệu đính và bổ chú bộ sách này. Tại lời cuối sách của cuốn “Minh thực lục” chép:
“Hai cuốn sách này được thực hiện trong thời gian dài (2000 – 2010) trải trên một không gian rộng lớn (Mỹ, Sài Gòn, Hà Nội) dịch giả và những người hiệu đính, bổ chép thậm chí chưa từng gặp gỡ… Chúng tôi rất tự hào vì
“Minh thực lục quan hệ Trung Quốc -Việt Nam thế kỷ XIV – XVII” là cuốn sử liệu đầu tiên trích dịch đầy đủ phần tư liệu về nước ta từ một bộ sử Trung Quốc, có in kèm đầy đủ bản gốc (phần dịch)”
[Minh thực lục quan hệ Trung Quốc – Việt Nam thế kỷ XIV – XVII,
tr268 – 269, NXB Hà Nội, 2010]
“Minh thực lục” xuất hiện vào đúng thời điểm quan trọng mà chúng tôi đang cùng nhau tìm kiếm tư liệu cho sự kiện mà “Thông sử” cung cấp. “Minh thực lục” đã cung cấp rất chi tiết những sự kiện liên quan đến việc “Thông sử” đã chép (nhưng không cung cấp chi tiết).
Vậy “Minh thực lục” cung cấp sự kiện lịch sử gì? Liên quan đến sự kiện lịch sử số III này, nội dung phần phục hồi sự kiện nhà Mạc thu hồi được một số lượng đất đai bị mất từ các triều đại tiền nhiệm sẽ trả lời câu hỏi đó.
Tìm lại các giá trị cơ bản của lịch sử chân chính thật sự là một việc rất khó khăn, bàn tay vô tình của thời gian dồn nén quá khứ vào sự câm lặng đáng sợ, cùng góp sức với thời gian, “lịch sử nhận thức” góp phần nhấn chìm những giá trị cơ bản của lịch sử chân chính xuống bùn đen.
Những sự kiện lịch sử rơi vào giai đoạn 30 năm cầm quyền của vua Mạc Mậu Hợp nhà Mạc, đã được các thể loại sử khác nhau khai thác hết mức những tình tiết khá lạ lẫm: “Sét đánh vào cung”, “bán thân bất toại”, “hoang dâm”, “hoa thơm đánh cả cụm” vv… Người ta dựng các vở diễn, viết sách, vẽ tranh châm biếm thậm chí thơ ca miêu tả ông như một nhân chứng cho sự suy tàn nhân cách của một người đúng đầu trị vì đất nước của nhà Mạc.
Chúng ta hoàn toàn không có “Mạc thực lục” hay “Mạc sử” để phục hồi toàn bộ sự kiện đòi lại đất đai này. Nhưng từ sự cung cấp rất sơ lược của “Thông sử” thông qua trách nhiệm của hai vị đại thần triều Mạc: Giáp Trừng và Đặng Vô Cạnh, nhiệm vụ quan trọng của quốc gia đã đặt lên vai những con người có khả năng gánh vác những công việc lớn lao giai đoạn lịch sử đó. Mặc dù thời gian kể trên Kế Khê Bá Giáp Trừng tuổi đã cao, nhiều lần xin trí sỹ và chắc chắn rằng kế hoạch đòi lại đất đai tại biên giới là một tiến trình lâu dài, đầy khó khăn cùng nhiều nhân vật trong triều đình nhà Mạc tham dự.
Việc phải dùng từ “quãng thời gian” trong một sự kiện lịch sử là một việc làm không mong muốn, thực tế từ sự chắp nối ghi chép này đến sự ghi chép khác của tư liệu sử học để suy ra thời gian chính xác mà sự kiện xảy ra đó là điều khó khăn để phục hồi lại sự kiện lich sử đã xảy ra.
“Thông sử” chép sự kiện xảy ra vào năm 1582, trong khi đó “Minh thực lục” tại mục 1281 ngày 26 tháng 6 năm vạn lịch thứ 13 (22/7/1585) chép:
“[1281] ngày 26 tháng 6 năm Vạn lịch thứ 13 (22/7/1585) trước đó vào năm Vạn lịch thứ 8 có cuộc tranh chấp biên giới giữa An Nam và các hạt Lôi Động, Quy Thuận thuộc tỉnh Quảng Tây”.
[Minh thực lục103, tr2967 – 2968, thần tông, q162, tr6a – 6b]
Năm “Vạn Lịch thứ 8” là năm 1580, “Thông sử” cung cấp sự kiện vào năm 1582. Như vậy có thể suy ra quãng thời gian xảy ra sự kiện lịch sử này nằm trong thời gian từ 1580 đến 1586 [mục 1282 – Minh thực lục] (dẫn sau) là 6 năm, trong khi đó quá trình chuẩn bị của triều đình nhà Mạc xảy ra từ thời điểm nào, không thể xác định rõ được.
Với thời gian từ 1580 đến 1586 là quãng thời gian sự kiện nhà Mạc thành công trong việc đòi được đất đai bị mất từ các triều đại tiền nhiệm Đại Việt. Thời gian đó nằm tại các niên biểu như sau: (năm 1580 là năm Canh Thìn niên biểu Diên Thành thứ 3 nhà Mạc còn năm 1586 là năm Ất Dậu, niên biểu Đoan Thái thứ nhất của nhà Mạc).
Vào năm 1584, niên biểu Diên Thành thứ 7 nhà Mạc, “Minh thực lục” cung cấp tại mục [1278] như sau:
“[1278] ngày 11 tháng giêng năm Vạn Lịch thứ 12 (22/2/1584) Tổng đốc Lưỡng Quảng đô ngự sử Quách Ứng Sinh xin hội các quan để khám xử An – Nam và các động thuộc các xứ Hạ Lôi, Quy – Thuận tại biên giới. Hoặc trả lại cho An Nam hoặc xây mốc đá định biên giới để chấm dứt mối tranh giữa hai bên và phân biệt giữa Hoa và Di. Hoàng thượng theo lời.”
[Minh thực lục 102, tr2705, thần tông, q145, tr4a]
Đọc những dòng sử trên từ “Minh thực lục”, chúng ta gặp lại 2 địa danh Quy – Thuận mà tại sự kiện I chúng tôi đã trình bày ở trên. Như vậy, suốt thời gian 500 năm sau, các triều đại Đại Việt đã dùng cả biện pháp ngoại giao, biện pháp quân sự quyết tâm đòi lại vùng đất đã bị mất này từ kỷ nhà Lý trước kia cho đất nước.
Thống kê sơ lược việc đòi lại đất đai 2 châu Quy Thuận diễn ra như sau:
* Nhà Lý, 6 lần cử sứ sang Tống để đòi đất và dùng cả quân đội đánh sang Quy – Thuận nhưng việc đành lỡ dở.
* Nhà Trần tập trung 3 vạn quân đánh sang châu Quy – Thuận nhưng việc cũng không thành công.
“Lịch triều hiến chương loại chí” chép:
“Anh Tông, năm Hưng Long thứ 2 (1318) (ngang với năm Hoàng Khánh thứ 3 nhà Nguyên) sai đem hơn 3 vạn quân bất thần kép đến châu Trấn Yên lại chia quân lấn châu Quy – Thuận”
[Lịch triều hiến chương loại chí, q4, tr196, NXB sử học, 1962]
Tới kỷ nhà Lê, những cố gắng mong muốn thu về vùng đất Quy – Thuận đã bị mất từ kỷ nhà Lý cũng không thành công.
Trở lại với những chi tiết đã dẫn ngày 11 tháng giêng năm Vạn Lịch thứ 12, sau đó 1 năm, “Minh thực lục” chép:
“[1281] ngày 26 tháng 6 năm Vạn Lịch thứ 13 (22/7/1585)”
“Trước đó vào năm Vạn Lịch thứ 8 có cuộc tranh chấp biên giới giữa An Nam và các hạt Lôi Động, Quy – Thuận thuộc tỉnh Quảng Tây. Triều đình sai quan cắt trả lại sáu giáp, 12 thôn. Đến nay sứ đến lại đem việc mất đất ra nói. Bộ lễ tâu:
“Điều xin của Mậu Hợp quá quắt lắm! Việc mất đất xảy ra cách mấy chục năm về trước, tranh chấp lại xảy ra mấy chục năm sau đó. Người xưa nói rằng: “Người khép xảo trá mở đất đai theo ý họ” Mậu Hợp đúng là người như vậy, nay ban văn thư cho biết về việc sửa đổi trong bản đồ. Hoàng thượng chấp nhận”
[Minh thực lục 103, tr1967 – 2968, thế tông q162, tr 6a – 6b]
Với hành trình và kết quả đòi đất đai Đại Việt đã bị mất vào tay nhà Tống, nhà Nguyên từ trước đó, nay được vị vua thứ 5 nhà Mạc thực hiện giai đoạn này.
Sau đây là những diễn biến cụ thể và sự thành công trong việc đòi được một phần đất 2 châu Quy – Thuận của vị vua thứ 5 nhà Mạc được chép cụ thể tại mục [1282] của “Minh thực lục”:
“[1282] Ngày 1 tháng 9 năm Vạn Lịch thứ 14 (12/10/1586) Bộ binh phúc tấu về việc các quan đốc phủ tại Lưỡng Quảng xưng rằng: “Các châu động Hạ Lôi, Quy – Thuận tiếp giáp với An Nam, thời Trần, Lê kế tiếp có xảy ra sự xâm vượt đến nay qua các đời nhân tâm đã định, yên ổn không phải chỉ có một ngày. Nay đô thống sứ Mạc Mậu Hợp nảy ý tham đòi lại, tâu nhàm lên thiên tử, đã sai quan khám và trả lại hơn 120 thôn. Nhưng y còn buông thả mưu đồ phóng túng đòi hỏi không ngớt, hành động của y giống như cái gọi là: “Được Lũng lại muốn thêm Thục”; Thực là quá lắm! Sự việc không thể nghe một bên, để tiếp tục gây mối lo dồn dập về sau. Căn cứ vào cương thổ trước kia hoặc lấy núi non làm giới hạn hoặc lấy sông
ngòi làm giới hạn để phán xét, không thể điều đình theo lối quanh co. Có hai thôn Ngân Bang, Long Phố dân giống như người Di; Ba Mễ, Cô Cổ hai thôn đất gần Thạch Lâm, xin đề nghị ban cấp. Để mỗi bên tuân thủ những điều đã định”
Hoàng thượng theo lời bàn để tỏ sự ưu đãi đối với người phương xa, nay công bố, từ nay trở về sau không được phép vượt ra khỏi bổn phận trình bày xin thêm nữa”
[Minh thực lục, 104, tr3295 – 3296, thần tông, q178, tr2a – 2b]
Trong quá trình phục dựng sự kiện lịch sử, nguyên tắc cơ bản cốt lõi của lịch sử là “bằng chứng”. Không có bằng chứng, không thể phục dựng lại những sự kiện lịch sử đã trôi qua, đó là những nguyên tắc cơ bản bất di bất dịch của lịch sử (dù không có chuyên môn). Chúng tôi hiểu và chấp nhận ngay từ ban đầu nguyên tắc này để gắng tìm các sự kiện lịch sử khách quan của nhà Mạc.
Với một quá trình (khoảng 6 – 7 năm) không khảo sát được thời điểm chuẩn bị của nhà Mạc, “quãng” thời gian từ 1580-1586: sau 6 năm. Nhà Mạc thành công trong việc đòi lại một phần đất đai hai châu Quy – Thuận đã bị mất vào tay nhà Tống từ những năm 1057, 1064, kết quả sự kiện lịch sử này là:
* Năm 1585: Là 6 giáp với 12 thôn
* Năm 1586: Là 120 thôn cùng với
– Thôn Ngân Bang
– Thôn Long Phố
– Thôn Cô Cổ
– Thôn Ba Mễ
Tổng số lượng đất đai đấu tranh đòi lại này, nhà Mạc thu về cho đất nước được:
136 thôn, 6 giápVùng đất mà nhà Mạc thu về cho giang sơn đất nước rộng bao nhiêu km2, tương đương với bao nhiêu huyện ngày nay, chúng tôi không đủ sức khảo cứu được. Dù biết rằng Thạch Lâm là một địa danh tỉnh Cao Bằng giáp biên giới Trung Hoa, thật tiếc, chúng tôi cũng không thể đi thực địa để tìm lại những địa danh cổ như : Ba Mễ, Cô Cổ, Ngân Bang hay Long phố, hiện nay mang tên gì, sự thay đổi các địa danh này theo tiến trình lịch sử đất nước ra sao? Chúng tôi được biết rằng 2 động Vật Dương và Vật Ác đã bị mất ở đời Lý có diện tích tương đương 14 huyện ngày nay. Thời điểm khép lại sự kiện số III này vào năm 1586 chỉ còn lại 6 năm sau là tới sự kiện 1592 của nhà Mạc sẽ được chúng tôi đưa vào sự kiện số V sau này.
Từ sự kiện số I, sự kiện số II rồi sự kiện số III mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Nhiệm vụ của “lịch sử nhận thức” đã thu được những kết quả ngoài mong đợi. “Lịch sử nhận thức” đã trao tận tay “gói quà”: “cắt đất hai châu Quy – Thuận” cho Mạc Thái Tổ. Sau 5 đời, cháu của Mạc Thái Tổ đã có công mở “gói quà” quý đó từ tay “lịch sử nhận thức”
TÓM LƯỢC SỰ KIỆN SỐ III
Phần V: Sự kiện số IV
Sự kiện diễn ra tại biên giới Đại Việt cuối năm 1540, nhà Mạc đầu hàng nhà Minh là sự thật, được cả sử ta, sử Minh ghi chép. “Đại Việt sử ký toàn thư” chép sự kiện trên như sau:“Mùa đông, tháng 11 Mạc Đăng Dung cùng cháu là Văn Minh và bề tôi là bọn Nguyễn Như Quế, Đỗ Thế Khanh, Đặng Văn Tri, Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô Văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi Trí Vĩnh qua trấn Nam quan, mỗi người đều cầm thước, buộc dây vào cổ, đi chân không đến bò rạp ở Mạc phủ nước Minh dập đầu quỳ dâng tờ biểu xin hàng biên hết đất đai quân dân quan chức trong nước để xin phán xử”
[Đại Việt sử ký toàn thư, tr621, q2, NXB VHTT, 2004]
Năm 1527 nhà Mạc ra đời, tới năm 1540 thời gian 13 năm đã trôi qua. Sự kiện tại biên giới Đại Việt cuối năm 1540 mà sử ghi chép là kết quả một quá trình được hình thành từ chính sách đối nội, đối ngoại của nhà Mạc. Đồng thời song hành cùng chính sách đối nội và đối ngoại từ triều đình nhà Minh, Minh thế tông.
Đã có kết quả tất phải có nguyên nhân, sử không thể dẫn giải toàn bộ quá trình tạo nên kết quả của sự kiện này. Trong “Kiến Văn tiểu lục” Lê Quý Đôn cũng từng phân giải về sự kiện nhà Mạc đầu hàng nhà Minh như sau:
“Xem tập Thù vực chu tư lục (Nghiêm Tòng Giản nhà Minh biên soạn) thì về nghi lễ sai sứ thần đi sính vấn của đời trước, về gốc ngọn việc nhà ngụy Mạc xin hàng, về sự khó khăn trong khi gây dựng cơ nghiệp trung hưng, về lòng thành khẩn tố cáo của di thần đời trước và đại cương quan chế, binh chế nước ta đều có thể biết rõ hơn”
[Kiến văn tiểu lục, tr196, VSH xuất bản 2007]
Sau gần 150 năm kể từ thời gian trên, Lê Quý Đôn tiếp cận nguồn sử liệu nhà Minh khi đi sứ bắc sau khi tiếp cận nguồn sử liệu trong “Thù vực chu tư lục” và ông hiểu: “gốc ngọn việc nhà ngụy Mạc xin hàng”.
Như vậy gốc chính là nguyên nhân, ngọn là kết quả của sự kiện, do đó công việc mà chúng tôi cần phải làm là: đi tìm gốc của sự kiện trên tức là nguyên nhân của sự kiện lịch sử đã xảy ra tại giai đoạn này.
Để có thể tìm hiểu “gốc” – “ngọn” sự kiện số 4 trên, người đọc sử không thể trông chờ gì từ nguồn tư liệu rất hạn hẹp từ quốc sử Đại Việt cũng các nguồn sách khác tại giai đoạn này. Khớp nối nguồn tư liệu của “Minh sử”, “Minh thực lục”, “Việt kiệu thư”, “An Nam chí nguyên” sẽ có câu trả lời thỏa đáng cho sự kiện số 4 mà chúng ta quan tâm.
Xã hội Trung hoa giai đoạn Minh thế tông chấp chính, có thể so sánh với một xã hội được miêu tả trong “Truyện Kiều”, một tác phẩm văn học bất hủ của Nguyễn Du mà mỗi người Việt Nam đều biết, người ít đọc, thuộc dăm bảy câu, người ham thích thuộc lòng, thậm chí đọc ngược cả tác phẩm. Một xã hội Trung hoa thời đó được hình dung qua một câu thơ Truyện Kiều: “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”!
Tại Trung hoa những cuộc khởi nghĩ tự phát của lực lượng nông dân xảy ra liên tục và quy mô ngày càng lớn. Đế quốc Mông Cổ ngày càng hùng mạnh, gây áp lực chiến tranh từ biên giới phía bắc Trung hoa. Những rối loạn từ chính quyền cơ sở tại các địa phương giáp biển của Trung Hoa là hậu quả từ những lực lượng cướp biển (giặc Nụy) góp phần. Có thể coi giai đoạn xã hội Trung hoa này thông qua bối cảnh nội bộ triều đình nhà Minh sau đây.
Xã hội nào, thì con người nấy, bối cảnh nội bộ cơ cấu thượng từng sẽ là tấm gương phản ánh chân thực toàn cảnh xã hội Trung hoa giai đoạn Minh Thế tông chấp chính. Đồng thời có thể coi giai đoạn lịch sử này của triều đình nhà Minh đã bước vào giai đoạn suy vong trong chu trình khép kín bất khả kháng của mỗi sự vật, sự việc trên đời: [(thành – thịnh – suy – hủy), ngày nay người ta đã khống chế được quy luật bất thành văn này bằng cơ chế nhiệm kỳ cộng với sự phân chia quyền lực)].
Để làm rõ bối cảnh triều đình nhà Minh tại sự kiện lịch sử cuối năm 1540 liên quan giữa hai quốc gia Trung hoa và Đại Việt. Chúng tôi không đi sâu vào những bàn cãi suốt 5 năm đánh hay không đánh Đại Việt, thông qua các nhân vật Phan Đán, Phan Trân, Đường Trụ, Từ Cửu Cao vv… trong triều đình nhà Minh mà chỉ cung cấp tư liệu lịch sử ghi chép về bộ máy chiến tranh chuẩn bị xâm lược Đại Việt giai đoạn này, thông qua ba nhân vật chủ chốt:
– Minh Thế Tông.
– Hàm Minh hầu cừu loan.
– Hữu đô ngự sử Mao Bá Ôn.
Bộ máy chiến tranh được khởi động để xâm lược Đại Việt giai đoạn Minh thế tông rất khác với bộ máy chiến tranh xâm lược Đại Việt giai đoạn Minh thành tổ với những nhân vật: Chu Năng, Trương Phụ, Triệu Tuấn…
Bộ máy chiến tranh do triều đình Minh thế tông khởi xướng xuất hiện lùng nhùng kéo dài qua hai giai đoạn (1530 – 1537) và (1537 – 1540). Tại triều đình nhà Minh xuất hiện hai phái “chủ hòa” và “chủ chiến”, tranh cãi nhiều năm đánh hay không đánh Đại Việt. Sau đây là những hình ảnh thu nhỏ về bộ não chỉ huy bộ máy chiến tranh ấy của triều đình nhà Minh – Minh Thế Tông thông qua từng cá nhân cụ thể:
a, Minh Thế Tông:
Ngoài những hành vi, lối sống khác lạ, Minh thế tông thể hiện những quan điểm cá nhân của mình thông qua những bàn luận, tranh cãi trong việc đánh hay không đánh An Nam mà “Minh sử” cung cấp chi tiết:
“Uông Văn Thịnh truyền hịch sang An Nam bảo rằng nếu Đăng Dung hàng phục, dâng nộp bản đồ, thì được tha chết, bố con Đăng Dung vội vàng sai sứ dâng biểu xin hàng và đưa thư nói rằng: “Họ Lê suy loạn, Trần Cảo loạn nghịch, nghỉ (Mạc Đăng Dung) và Phương Doanh có công được nhân dân quy phụ. Những đất đai đã ghi chép ở trong nhất thống chí (?) nghỉ (Mạc Đăng Dung) xin được tha tội và xin cống như lệ cũ”. THÁNG 3 NĂM GIA TĨNH 17, BỌN TRIỀU PHỤ ĐEM VIỆC ẤY TÂU VUA. LÊ NINH SỢ THIÊN TRIỀU CHO ĐĂNG DUNG QUY HÀNG, BÈN ĐEM ĐẦU ĐUÔI ĐĂNG DUNG THOÁN THÍ, SỐ BINH MÃ VÀ ĐƯỜNG LỐI TIẾN QUÂN TÂU BÀY. Vua giao tất cả cho bộ binh cùng với đình thần bàn định. Các quan đều nói họ Mạc không nên tha và phải cho đem quân đánh ngay. Lại xin đề cử Hàm Minh hầu tổng đốc quân vụ và Bá Ôn làm tham tán. Vua chuẩn y. Trương Kính dâng sớ tâu bày 6 phương lược về việc đánh An Nam và nói rằng:
“Phải có 30 vạn quân, mỗi năm phải dùng 160 vạn thạch lương thực, những phí tổn về việc đóng thuyền, mua ngựa, chế tạo khí giới, khao thưởng quân sỹ hết hơn 70 vạn nữa. Quân ta vượt biên nhọc mệt, quân họ nghỉ ngơi mạnh khỏe, tình thế khác nhau, điều đó phải nên suy xét cẩn thận”. Bản sớ của Trương Kính vừa dâng lên, thì lại tiếp được bản tâu của tri châu Lâm Hy Nguyên nói rằng: Đăng Dung thế nào cũng phá vỡ được. Bộ binh không biết quyết định thế nào,lại xin Vua giao cho các quan đình thần bàn định. Khi các quan đệ bản tham nghị lên, vua không bằng lòng nói rằng:
“Trẫm nghe các khanh sỹ đại phụ bàn riêng với nhau, đều nói không nên đánh. Các ngươi giữ chính quyền của nhà nước, không có chủ trì việc gì cũng giao cho hội nghị, xem ra các ngươi không có cùng lòng mưu tính việc nước”. Vua lại sai Cừu Loan và Mao Bá Ôn đi làm việc khác”.
[Minh sử 321, An Nam, q3, tr352 – 3547 tr107 (bản dịch). TL/LS khoa sử
ĐH KHXH&NV. KH: TL/LS 0030]
Từ sự ghi chép trên của “Minh sử” là những diễn biến sơ bộ lần hoãn quân thứ nhất năm 1537 với quyết định từ Minh thế tông. Từ tình hình thực tế xã hội giai đoạn này, cùng những diễn biến của phái “chủ hòa” và phái “chủ chiến” trong chính quyền triều đình Minh Thế Tông. Minh Thế Tông đã chọn phương án dung hòa mâu thuẫn nội tại của hai phái trong triều đình như sau: “Minh sử” mục liệt truyện Mao Bá Ôn chép:
“Vua bèn cải bổ Bá Ôn lĩnh chức binh bộ thượng thư kiêm hữu đô ngự sử và bắt đem quân đi ngay. vua cho dụng binh là việc hệ trọng, ý vua KHÔNG MUỐN ĐÁNH THỰC, CHỈ MUỐN RA OAI ĐỂ BẮT AN NAM TÒNG PHỤC. Nhưng binh bộ thượng thư Trương Toản. Không biết ý vua có phải không. Các quan triều thần phần nhiều bàn không nên đánh, nhưng không dám can hẳn”
[Minh sử, q2, tr2088, tầng dưới đến tr2090 tầng trên, tr49 (bản dịch) TL/LS khoa sử ĐH KHXH&NV. KH: TL/LS 0030]
Qua 2 lần dẫn trên, người đọc có thể hình dung bối cảnh nội bộ triều đình nhà Minh từ 1530 đến 1537 và từ năm 1537 đến 1540, trong việc bàn cãi xung quanh cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt.
Bộ máy điều hành chiến tranh xâm lược Đại Việt là hình ảnh thu nhỏ cả xã hội Trung hoa và nội bộ triều đình nhà Minh, được phản ánh trung thực qua hai nhân vật cầm đầu bộ máy chiến tranh sau đây.
b, Nhân vật Hàm Ninh hầu Cừu Loan
Trong các cuộc chiến tranh vệ quốc đã xảy ra nhằm bảo vệ Đại Việt, có lẽ công việc đầu tiên cha ông ta phải tính tới: Biết ta và biết địch. Nhà Mạc đã thành công từ bên kia biên giới trong cuộc chiến thầm lặng bằng phương pháp tình báo, thậm chí ngay tại triều đình Minh thế tông (mà ngày nay người ta gọi là “tình báo chiến lược”) mọi bàn luận, chủ trương xâm lược Đại Việt đã được nhà Mạc thu thập, phân tích. Có rất nhiều người dân đất nước phụng sự nhà Mạc thời đó âm thầm hy sinh vì sự trường tồn của đất nước, bị bắt, bị giam, hy sinh vì nền độc lập của Đại Việt.
Từ những tin tức tình báo “chiến lược” và “chiến thuật” đã góp phần cho chủ trương, chính sách kế hoạch phòng thủ kịp thời, cùng với những kế sách uyển chuyển của nhà Mạc trước một cuộc chiến tranh xâm lược từ bên kia biên giới. Nhà Mạc đã chặn đứng thành công những âm mưu đen tối và thâm độc từ các phía vào Đại Việt. Nhà Mạc đã mua được con ngựa đầu đàn trong guồng máy chiến tranh xâm lược này. Những người Việt âm thầm hoàn tất những công việc đó là ai? Chúng ta không thể nào biết được, chỉ biết rằng lịch sử luôn có những khúc quanh, như việc đuổi 2,5 vạn quân Tưởng (đồng minh) ra khỏi bắc Việt Nam gần đây, cùng là những phương pháp tương tự.
Tại mục liệt truyện Mao Bá Ôn, “Minh sử” chép:
“Tháng 7 nhuận, vua sai Bá Ôn và Cừu Loan đi đánh An Nam, bọn Bá Ôn đến Quảng Đông, hội đồng với tổng đốc Trương Kính, tổng binh Liễu Tuân, tham chính ông Vạn Đạt và Trương Nhạc để bàn định các công việc. Lại tổng bắt lính ở Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Quảng và người Thổ Lang cộng 12 vạn 5 nghìn người chia làm 3 đạo từ Bằng Tường, Long Động và Tư Lãng tiến sang An Nam và lấy 2 đội Kỳ binh làm thanh viện. Bá Ôn tư cho tuần phủ Vân Nam là Uông Văn Thịnh đem quân đóng ở ghềnh Liên Hoa và cũng chia làm 3 đạo tiến sang An Nam. Công việc xếp đặt vừa xong thì CỪU LOAN PHẠM TỘI, TRIỀU ĐÌNH ĐÒI LOAN VỀ và cho Liễu Tuân lên thay”
[Minh sử, q2, tr2088 tầng dưới đến tr2090 tầng trên, tr51 (bản dịch), TL/LS khoa sử ĐH KHXH&NV. KH: TL/LS 0030]
Người đứng đầu guồng máy chiến tranh xâm lược Đại Việt Hàm Ninh hầu Cừu Loan phạm tội gì?
Tại mục: “Hạnh trạng của Tư thiên đại phu, binh bộ thượng thư Đông Nhai Ông Vạn Đạt” cung cấp một phần sự thật này:
“Trước kia, Hàm Ninh hầu (Cừu Loan) sai bộ hạ lẻn đến đòi Đăng Dung cho tiền thì sẽ được đầu hàng. Ông (ông Vạn Đạt) phát giác việc ấy, nên việc hối lộ không thành”
[Minh sử tập 16, q39, tr67a – 75a, tờ 72 (bản dịch). TL/LS khoa sử ĐHKHXH&NV. KH: TL/LS 0032]
Nhân vật số 2 guồng máy chiến tranh xâm lược Đại Việt đã gục ngã ở bên kia biên giới còn lại nhân vật số 1 được đôn lên thay thế cả vị trí này trong bộ máy quân sự xâm lược Đại Việt của nhà Minh.
c, Nhân vật hữu đô ngự sử tham tán quân sự thứ nhất: Mao Bá Ôn
Mao Bá Ôn đỗ tiến sỹ năm 1517 ra làm quan triều đình nhà Minh và được thăng tới chức hữu đô ngự sử. “Minh sử” cung cấp những trạng thái tâm lý của Mao Bá ôn trước và sau nhận nhiệm vụ số 1 trong guồng máy chiến tranh xâm lược Đại Việt.
“Minh sử” chép:
“Bấy giờ vua sai Mao Bá Ôn đi đánh An Nam. Phan Đán đi qua nhà Mao Bá Ôn, bảo Bá Ôn rằng: An Nam không phải là giặc kẽ ngạch. Ông nên lấy cớ còn đương có đại tang (bố Mao Bá Ôn mất) xin từ đừng đi vội”
[Minh sử, liệt truyện Phan Đán, q2, tr214 tầng dưới dòng 11, tr58 (bản dịch) TL/LS khoa sử ĐH KHXH&NV, KH: TL/LS 0030]
Dù không có sớ phân trần hay quyết liệt bàn cãi trong những lần bàn đánh hay không đánh Đại Việt, Mao Bá Ôn đã có những quan điểm riêng cố không nhận chức hữu đô ngự sử. Khi nhận việc đánh An Nam cố ý chậm chạp lừng khừng, có thể coi Mao Bá Ôn nằm trong phái “chủ hòa” như Đường Trụ, Phan Đán, Phan Trân, Từ Cửu Cao tại triều đình nhà Minh giai đoạn lịch sử này. Trong bài hạnh trạng Mao Bá Ôn.
“Minh sử” chép:
“Hạnh Trạng của tiền quang lộc đại phu, trụ quốc, thái tử thái bảo, binh bộ thượng thư Mao Bá Ôn (do La Hồng Tiên soạn). Ông húy là Bá Ôn, tự là Nhữ Lệ, quê ở Cát Thủy, năm Đinh Mão đời Chính đức (1507) đỗ hương thí, năm sau đỗ tiến sỹ.
Năm Bính Thân đời Gia Tĩnh (1536) lập hoàng thái tử, chiểu lệ thì thông chiếu dụ cho các nước ngoài biết. Vua thấy An Nam bỏ không triều cống đã lâu, muốn đem quân sang hỏi tội, nhưng chưa tìm được người làm chủ súy. Đình thần đề nghị cử ông sung chức ấy.
Mùa xuân năm Đinh Dậu (1537) vua cho ông khôi phục hữu đô ngự sử. ÔNG CỐ TỪ, nhưng vua không nghe lại sai quan thúc dục ông lên đường, BẤT ĐẮC DĨ ông phải tuân mệnh”
[Minh sử, t16, q39, tr42a – 47b, tr67 (bản dịch), TL/LS khoa sử
ĐH KHXH&NV, KH: TL/LS 0032]”
Một vài phác họa chân dung hai nhân vật cầm đầu bộ máy chiến tranh chuẩn bị xâm lược Đại Việt là như vậy. Cừu Loan ngã ngựa dọc đường. Còn lại một thân, một ngựa, Mao Bá Ôn đã dùng bảo bối mà Minh thế tông trao cho trong chiếu thư khi xuất quân ra Lưỡng Quảng giáp Đại Việt như sau:
“Nay đặc cách sai nhà ngươi (Mao Bá Ôn) cùng với quan hầu Cừu Loan, đi trước đến chỗ thích trung giữa Lưỡng quảng và Vân Nam… chiếu theo các sự lý do bộ ấy đã đề nghị ra ĐỀU GIAO HẾT CHO NHÀ NGƯƠI TÙY NGHI XỬ TRÍ…”
[Thù vực chu tư lục, tr123 – 124 bản dịch Trần Lê Hữu, TL/LS khoa sử,
ĐH KHXH&NV, KH: LS/ TL 0089]
Nhằm tìm ra một nhân vật trung gian có thể hoàn tất công việc trong nhóm quan lại lương quân Trương Kinh – ông Vạn Đạt – Trương Nhạc, để trao gửi chiếc chìa khóa giải quyết cuộc chiến trong danh dự. Mao Bá Ôn đã tìm được một nhân vật đáp ứng đủ tiêu chí mà Bá Ôn cần, đó là: Trương Nhạc
“Minh sử” chép:
“Về sau Mao Bá Ôn đem quân đến, Trương Kính đem tất cả việc quân giao cho Trương Nhạc trông coi. Lại tiến cử Trương Nhạc và ông Vạn Đạt với Bá Ôn. Trương Nhạc và Bá Ôn bàn luận trong mấy ngày. Bá Ôn bảo Nhạc rằng: “CÔNG VIỆC Ở GIAO CHỈ LÀ CỦA ÔNG” rồi cho Đăng Dung đầu hàng như lời Trương Nhạc đề nghị.
Triều đình bổ Nhạc đi lĩnh chức tham chính Chiết Giang. Bá Ôn tâu xin giữ lại. Nhạc được cải bổ làm tham chính Quảng Đông, chia giữ Hải Bắc”.
[Minh sử, q2, tr2143 tầng trên, dòng 17 và tầng dưới, tr58(bản dịch) liệt truyện Trương Nhạc, TL/LS khoa sử ĐH KHXH&NV, KH: LS/TL 0030]
d, Nhân vật Trương Nhạc
Trương Nhạc là ai mà đã được toàn bộ khối quân sự địa phương Lưỡng Quảng – Vân Nam đề cử cho Mao Bá Ôn .Từ đâu Mao Bá Ôn trao cho Trương Nhạc chiếc chìa khóa để [“đóng” – “mở”] cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt này.
Duới đây xin dẫn ra nhân thân Trương Nhạc
Do “Minh sử” chép:
“Ông tự là Duy Kiều, đỗ tiến sỹ năm Đinh Sửu đời Chính Đức (1517) sau ông bị trích ra Liêm Châu, Liêm Châu cách Giao Chỉ một con sông. Bấy giờ triều đình đang bàn định việc đánh Giao Chỉ. Trương – Các đề nghị với bộ lại sai ông đi đánh, nhiều người tán thành việc đánh Giao Chỉ, chỉ có một mình ông tranh luận không nên đánh. Ông dâng sớ điều trần 6 điều không nên đánh, nhưng vẫn tuyển mộ binh sỹ, tích trữ lương thực, lập các đồn lũy, dự bị kế hoạch để đợi lệnh. Thượng thư Mao Bá Ôn lĩnh chức chủ súy. Mạc Đăng Dung sợ, mật sai người đến nói với ông xin đầu hàng.
Ngày Kỷ Hợi, ông được thăng chức đề học phó sứ tỉnh Chiết Giang, rồi đổi sang chức tham chính.
Bá Ôn theo đề nghị của ông cho Đăng Dung đầu hàng. Đăng Dung hỏi rằng thái thú Châu Liêm bây giờ ở đâu? Bá Ôn bèn cùng với đốc phủ Thái Kính tâu xin đổi ông coi châu Khâm và châu Liêm. Đăng Dung đến cửa quan đầu hàng, ông thân hành đến nhận sự đầu hàng và tặng Đăng Dung hai bài thơ”
[Minh sử, tập 23, q38, tr17a – 18a, tr86 – 87 (bản dịch); TL/LS
khoa sử ĐH KHXH&NV; KH: TL/LS 0032]
Trương Nhạc không phải là một nhân vật có danh chức trong triều đình nhà Minh, vốn là một quan chức địa phương, giáp với biên giới Đại Việt. Trương Nhạc có thời là đốc học tỉnh Chiết Giang Trung Hoa. Như vậy, ta có thể biết được rằng Trương Nhạc thuần túy là một người hiểu biết, có học vấn, là người chống chiến tranh. Thời gian từ năm 1517 Trương Nhạc đã làm việc tại biên giới sát Đại Việt đến năm 1540 đã là 23 năm Trương Nhạc sẽ rất hiểu tình hình nội bộ Đại Việt, cũng như tinh thần chống ngoại xâm của Đại Việt. Nhưng quan trọng hơn hết, tại sao Trương Nhạc được Mao Bá Ôn trao cho chiếc chìa khóa giải quyết cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt ầm ĩ này từ triều đình nhà Minh? Và tối quan trọng hơn cả Trương Nhạc là mắt xích gì cho sự đảm bảo mọi thương thuyết để giải quyết các vấn đề giữa hai quốc gia giai đoạn lịch sử đó.
“An Nam chí nguyên” sẽ hé lộ một phần nào đó sự trao đi, đổi lại, cùng những tranh biện xung quanh sự kiện này:
“Gặp bấy giờ Tư mã Mao Bá Ôn đến, Nhạc đem hết cả những việc trước đã bàn luận và phân tích mà trình bày cho Bá Ôn biết. Nhạc lại chính tay viết thành một tập trình bày về tình hình nội bộ và hình thể đất đai phía giặc để cho Bá Ôn biết rõ và nói: “Nếu ông quyết kế cứ đánh thì phương lược dùng để mưu tính tiến thủ không còn gì hơn cái này nữa. Nhưng chỉ bằng bãi binh không đánh là kế hoạch hoàn toàn hơn cả. Đó là tùy ông quyết định sách lược ra sao đấy thôi”. Nhạc nói chuyện với Bá Ôn luôn mấy ngày, rất được Bá Ôn vừa ý. Bá Ôn nói kín với Nhạc rằng: “CÔNG VIỆC GIAO CHÂU GIAO CẢ CHO ÔNG ĐẤY”.
Trước đó Đăng Dung nghe biết triều đình (nhà Minh) dấy quân bèn sai đồ đảng là Phạm Chính Nghị đem công văn sang Vân Nam nói:
“Tiền quốc vương là Lê Chừu bị nghịch thần cảo giết hại, Chừu không có con. Đăng Dung cùng với người nước bèn lập Tuệ, em Chừu lên kế vị. Tuệ bị kẻ gian là Đỗ Ôn và Trịnh Tuy dỗ dời vào Thanh Hoa. Đăng Dung lại lập em Tuệ là Khoáng, rồi lại đón Tuệ từ Thanh Hoa trở về. Tuệ và Khoáng đều bị bệnh chết. Họ Lê không có người nối dõi. Khoáng khi sắp chết, có bàn với quân thần, cho rằng Đăng Dung có công lao với nước nên mới trao cho ấn chương, bảo đứng lên làm chủ trông coi việc nước (Mạc Đăng Dung) bèn được người nước suy tôn. Cái cớ sở dĩ không được dâng biểu thông sứ tiến cống là trước vì Trần Cảo chiếm giữ Lạng Sơn, làm nghẽn đường sau vì bởi thủ thần đóng cửa ải không tiếp nạp đó thôi. Lê Ninh là con của loạn thần Nguyễn Kim, mạo nhận là họ Lê, chứ không phải thực con của Tuệ”
Đăng Dung tuy tự kể lể trình bày như vậy, nhưng sự việc đều gian trá lừa bịp, phần nhiều là lời bào chữa cho mình. Kiềm quốc công Mộc triều phụ tâu việc ấy lên vua Minh biết.
Được ít lâu Phương Doanh (Đăng Doanh) chết, Mạc Phúc Hải lên nối ngôi. Đăng Dung sai sứ giả sang vận động với Nhạc. Nhưng Nhạc không hề thông hiếu với hắn. Đến bây giờ, Đăng Dung lại càng cầu xin tha thiết. Nhạc bèn yêu sách bằng những điều kiện như vẫn nói chuyện với đốc phủ (Thái Kinh) từ trước. Đăng Dung ban đầu từng còn quật cường, nhưng bị Nhạc dọa dẫm về họa phúc, bảo phải tự mình sớm liệu mưu tính lấy. Đăng Dung bấy giờ mới chịu một một vâng theo mệnh lệnh.
Gặp bấy giờ Trương Nhạc thăng làm đốc học Chiết Giang, Rồi lại chuyển đi làm Tham chính. Đăng Dung do đó lại chùng chình nghi ngờ, không quyết định. Bá Ôn dâng sớ tâu xin cho Nhạc được về Quảng Đông. Đăng Dung cho người dò xét thái thú Liêm Châu ở đâu. Khi biết Nhạc đã đến Quảng Đông. Đăng Dung nói:
“Thái thú họ Trương (Trương Nhạc) ở đó, thì ta không sợ rồi”
[An Nam chí nguyên, tr31 – 32, viện sử học, KH: ĐVv 290]
Bức tranh toàn cảnh nội bộ triều đình nhà Minh được dẫn giải qua ba nhân vật chính tham dự guống máy chiến tranh xâm lược Đại Việt cuối năm 1540, đã được chúng tôi phác họa ở trên, nhằm góp phần đưa yếu tố khách quan sự kiện này về đúng vị trí của nó trong lịch sử.
Bối cảnh Đại Việt trước khi nhà Mạc ra đời là sự cấu thành những mâu thuẫn sâu sắc trong lòng 1 xã hội quân chủ kéo dài từ thế kỷ XV – XVII. Sự ra đời của nhà Mạc chấm dứt 20 năm đại khủng hoảng nội bộ Đại Việt. Một sự thay đổi khách quan theo một tiến trình vận động tự nhiên “cùng – biến – thông”, sự thay đổi này diễn tiến trong gần hai thập kỷ đã giúp Đại Việt đi dần vào quỹ đạo ổn định và phát triển theo hướng tích cực. Thành quả đó các sử gia Lê trung hưng không thể phủ nhận khi soạn “Bản kỷ tục biên”.
Nhà Mạc ra đời, lại đứng trước những mẫu thuẫn nội tại mới nảy sinh xuất phát từ hệ tư tưởng nho giáo và nhận thức xã hội cách ngày nay 5 thế kỷ. Những ảnh hưởng từ chế độ cũ, hình ảnh, danh tiếng người anh hùng dân tộc Lê Lợi khắc sâu vào đời sống văn hóa cả dân tộc. Sau gần 20 năm phân rã, chính quyền trung ương nhà Lê tạo ra những nhóm quan lại tranh giành quyền lực, bất chấp quyền lợi đất nước, những toan tính mưu quyền được thể chế hóa bằng một chính thể, hai khuôn mặt vv…
Trong khi đó, ở bên kia biên giới, đế quốc Trung hoa một lần nữa âm thầm chuẩn bị một cuộc chiến tranh quy mô lớn nhằm thôn tính Đại Việt.
Bối cảnh nhà Mạc thời kỳ này, được các sử gia đương thời mô tả nằm trong tình huống “lưỡng đầu thọ địch”.
“lưỡng” là hai: Hai lực lượng quân sự, một ở bên kia biên giới Đại Việt đang lăm le tiến hành cuộc chiến tranh tổng lực xâm lược Đại Việt, lực lượng thứ hai đang nhen nhóm và thành hình tại Thanh Hoa Đại Việt. Nhưng trên thực tế nhà Mạc đang đứng trước một tình huống “ngũ đầu thọ địch”
Trên tấm bản đồ quân sự của nhà Mạc xuất hiện năm gọng kìm từ năm hướng:
– Bốn hướng đánh vào Đại Việt từ bên ngoài
– Hai hướng nội ứng trong nội bộ Đại Việt (hai hướng nội ứng quy vào một mối)
Lực lượng quân sự chính quy của nhà Minh được chia làm hai mũi tiến quân từ hai hướng vào Đại Việt, “Minh sử” chép:
“Tháng 7 nhuận, vua sai Bá Ôn và Cừu Loan đi đánh An Nam. Bọn Bá Ôn đến Quảng tây, hội đồng với tổng đốc Trương Kính, tổng binh Liễu Tuân, tham chính ông Vạn Đạt và Trương Nhạc để bàn định các công việc. Lại trưng bắt lính ở Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Quảng và người thổ lang cộng. 12 vạn 5 nghìn người, chia làm 3 đạo từ Bằng Tường, Long -Động và Tư Lang tiến sang An Nam và lấy 2 đội kỳ binh làm thanh viện. Bá Ôn tự cho tuần phủ Vân Nam là Uông Văn Thịnh đem quân đóng ở ghềnh Liên Hoa và cũng chia làm 3 đạo tiến sang An Nam”
[Minh sử, liệt truyện Mao Bá Ôn, q2, tr2088 tầng dưới đến 2090 tầng trên, tr51 (bản dịch), TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV. KH: TL/LS 0029]
Là 3 nước nhỏ nằm ở phía tây, tây bắc Đại Việt ba lực lượng quân sự này sẵn sàng tham dự ba hướng tấn công vào Đại Việt từ hướng tây, tây bắc (Mộc Châu).
Ngày 23/10 năm Gia Tĩnh thứ 16 (1537) “Minh thực lục” chép:
“[1221] tuần phủ Vân Nam Uông Văn Thịnh tâu…Thổ xã trang tuyên ủy LÃO QUA phạ nhã nghe tin chinh phạt An Nam hăng hái đầu tiên tình nguyện, vả lại nước này đất rộng nhiều người An Nam sợ chúng, có thể cho đối địch riêng một phía.
Mặt khác, thổ xã trang tuyên ủy BÁT BÁCH Điêu Lăm Na, Thổ Xã ty, tuyên ủy XẠ LÝ (1 nước nhỏ giáp Lão Qua).
Điêu Khâm gần với Lão Qua, thổ xã ty Mạnh Lương Điêu giao tại thượng lưu Lão Qua đất nhiều lính voi sẵn sàng việc chinh thảo. Xin miễn việc tra khám, ra lệnh cho họ tề tựu tại địa phương, nên ra lệnh cho Lão Qua trú binh tại Mộc Châu để đợi tiến binh, bọn họ chiếm được địa phương nào cho cai quản, chiếu thư ban: có thể chấp nhận lời tâu”
[Minh thực lục v80, tr4282 – 4283 thế tông, q205, tr4b – 5a, tr202
bản dịch, NXB Hà Nội, 2010]
Vậy là có thêm ba lực lượng quân sự nước ngoài cùng tham chiến đánh Đại Việt từ phía tây, tây bắc đất nước. Nhưng điều tối nguy hiểm bởi âm mưu làm tan hoang Đại Việt: “Bọn họ chiếm được địa phương nào cho cai quản”
Mảnh đất ngàn năm ông cha đã đổ bao xương máu gây dựng giữ gìn nay sẽ bị chia 5 xẻ 7, sẽ bị xé nát trước âm mưu thâm độc từ phía bắc, khi những đội quân xâm lược ô hợp trên giày xéo đất nước cái gì sẽ phải trả giá? Nhà Mạc đứng trước một nút thắt của lịch sử từ 5 mũi tiến công ở bên ngoài và bên trong nội bộ Đại Việt.
Ngày 6/4 năm Gia Tĩnh thứ 17 (1538) (sau 1 tháng lệnh hoãn binh từ Minh thế tông 1537), xuất hiện yếu tố Chiêm Thành, tri châu Khâm châu Lâm hy nguyên dâng biểu lên Minh thế tông trình bày phương lược đánh Đại Việt từ biển vào Dương Kinh Đại Việt.
“Minh sử” chép:
“[1239] ngày 6 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 19 (1540) Tri châu châu Khâm, Lâm hy Nguyên dâng biểu rằng:
“Thần nghe nói rằng Mạc Phương Doanh An Nam xin hàng, đặc mệnh đại thần tra khám. Kẻ hàng nộp sổ sách ghi đất đai dân số để hiến, nay giết quân lính của ta, cướp chiến thuyền của ta, hàng mà như vậy ư? Nay gửi đại thần đến khám hỏi; vậy khám gì đây? Nếu khám xem nước đó hoặc các phe phái hàng hay dối trá, thì thực tình không hay biết được. Khám về biên giới, thì các trọng thần nơi biên cương đã làm rồi, ai dám trả lời khác được. Thần nghĩ rằng muốn biết tình thật, bắt giao ước những điều sau đây:
PHẢI TRẢ CHO TA 4 ĐỘNG, lệnh để Lê Ninh không mất ngôi vị, lệnh để cựu thần nhà Lê như Trịnh Duy Liêu, Vũ Văn Uyên không mất chức tước và đất tuân theo lịch chính sóc. Theo những điều của ta là hàng, không theo là ngụy trá. Nhân đó hưng binh hỏi tội, lại được sự trợ giúp của lực lượng Thuận Tòng, thì trận nào mà chẳng thắng. Lại bảo: “Chỗ dựa của Phương Doanh là Đô Trai (Cổ Trai) vùng này gần biển, bùn lầy hơn 10 dặm, thuyền không ghé được. Kế hoạch của chúng nếu kinh thành không giữ được thì chạy đến Đô Trai, Đô Trai không giữ được thì chạy ra biển. Nếu quân ta tại Đông Hoán, Quỳnh Hải giúp Chiêm Thành đánh về phía Nam, thì giặc không chạy được.”
[Minh thực lục v84, tr4815 – 4817, thế tông, q216, tr2a – 3a, tr211 – 212, Minh thực lục quan hệ Trung Quốc – Việt Nam thế kỷ XIV – XVII, NXB Hà Nội, 2010]
Những tính toán, dự trù kế hoạch quân sự từ triều đình Minh thế tông đã hoàn tất trước năm 1540. Trên tấm bản đồ quân sự tác chiến, 4 mũi tấn công Đại Việt từ bên ngoài đã đươc lên khung cùng với năm lực lượng nội ứng của Đại Việt tương tác, hoàn chỉnh chuẩn bị vượt biên giới xâm lăng Đại Việt.
Sau gần 5 năm tranh cãi, đánh hay không đánh Đại Việt, cùng với việc chuẩn bị hậu cần chiến tranh, guồng máy chiến tranh xâm lược của nhà Minh vận hành một cách ì ạch, chậm chạp. Đến ngày 24/3 năm Gia Tĩnh thứ 17 (1538) Minh thế tông đột ngột xuống chiếu tạm hoãn đánh An Nam, chiếu viết:
“[1222] ngày 24 tháng 3 năm Gia Tĩnh thứ 17 (22/4/1538) vì những lời tâu của Lê Ninh Hoãn việc chinh phạt An Nam”
[Minh thực lục v80, tr4341 – 4343, thế tông, q210, tr4a – 5a, Minh thực lục – quan hệ Trung Quốc – Việt Nam thế kỷ XIV- XVII, tr203, NXB Hà Nội, 2010]
Tại sao sau một thời gian khá dài, chuẩn bị kỹ càng chỉ chờ ngày phát lệnh chinh thảo Đại Việt, Minh thế tông lại xuống chiếu hoãn binh?
Một giọt nước làm tràn ly, một cục diện mới xuất hiện từ nội bộ Đại Việt mang món quà mới đến với Minh Thế tông: hai lực lượng nội ứng sẵn sàng nộp đất cho kẻ thù. Thế và trận đã chuyển sang một tình huống mới, cần toan tính mới của Minh thế tông trước kế hoạch xâm lược Đại Việt.
“Minh thực lục” chép:
“[1218 ngày 6 tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 16 (9/10, ngày Nhâm Ngọ, trước đó người Giao Chỉ Vũ Văn Uyên mang đồng đảng đến hàng. Đô ngự sử Uông Văn Thịnh sai chỉ huy Triệu Quang Tổ đến phủ dụ. Văn Uyên bèn sai người di là bọn Nguyễn Hoằng Quý đến hiến bản đồ tiến binh, nhân nói về tình trạng loạn lạc tại An Nam rằng Văn Uyên vốn là bầy tôi của nhà Lê, do loạn Đăng Dung nên ra đóng quân tại Tuyên Quang, cựu thần nhà Lê như Nguyễn Nhân Liên, Lê Kinh Mỹ, mỗi người chiếm đóng mỗi phương, đánh nhau với Đăng Dung. Văn Uyên có 10000 quân, đợi thiên binh xuống phía Nam sai cháu là Vũ Tử Lăng đóng tại cửa ải Thạch Long để nhập theo, rồi hiệu triệu người trong nước thế có thể dẹp Đăng Dung được. Văn Thịnh xin ban cho Văn Uyên chức quan và cấp sắc dụ để tiện liệu việc”
[Minh thực lục v80, tr4262, thế tông, q204, tr1b, Minh thực lục quan hệ Trung Quốc Việt Nam thế kỷ XIV – XVII, tr199 – 200, NXB Hà Nội, 2010]
Trong các cuộc chiến tranh nói chung không thể không tính đến sức mạnh ghê gớm của lực lượng quân sự nội ứng đã buộc Minh thế tông hoãn binh vào ngày 23/4/1538 này. Sau khi nhận được “món quà” từ phía Lê – Trịnh.
“Minh thực lục” chép:
“[1222] Ngày 24 tháng 3 năm Gia Tĩnh thứ 17 (23/4/1538) vì những lời bàn tán về Lê Ninh, nên tạm hoãn việc chinh phạt An Nam…
…Cùng lúc triều phụ lại báo Lê Ninh đã nhận được hịch văn gửi trước đó, tường trình việc (họ Mạc) soán đạt và giết vua, xa giá lánh nạn, cùng cung cấp tin tức về số binh mã thủy bộ, trình bày con đường tiến quân chiếu thư phán đưa nội vụ xuống bộ binh tập hợp phủ, bộ, các quan hội bàn…”
[Minh thực lục, tr4341 – 4343, thế tông, q210, tr4a – 5a, Minh thực lục – quan hệ Trung Quốc – Việt Nam thế kỷ XIV – XVII, tr203 – 204, NXB Hà Nội, 2010]
Toàn cảnh bản đồ quân sự của triều đình nhà Minh kết hợp với các lực lượng quân sự nước ngoài, hai lực lượng nội bộ Đại Việt làm nội ứng đã được chuẩn bị chu đáo hòng xâu xé tan hoang Đại Việt một lần nữa sau nhà Hồ. Nhà Mạc đứng trước một tình huống “ngũ đầu thọ địch”.
III. NHỮNG BÀI HỌC TỪ LỊCH SỬ
Lịch sử như một sợi dây chằng níu giữ gìn quá khứ, hiện tại và tương lai cho một xã hội hay lớn hơn là cả một dân tộc và một đất nước. Nhìn lại quá khứ, những bài học xương máu từ lịch sử đã được các thế hệ đi trước rút ra những lời tâm huyết, truyền lại cho đời sau:
“Xem tập: Bình định nam giao lục, có thể biết được cái lỗi cha con họ Hồ sở hở lầm lẫn, mở đường cho giặc kéo vào cướp nước”
[Kiến văn tiểu lục, tr196, viện sử học XB 2007]
Dù lịch sử đã trôi qua hơn 600 năm, cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt do Minh Thành tổ phát động với cái mác “Hưng diệt, phế tuyệt” (diệt Hồ, cứu Trần) xảy ra trước kia. Ngày nay chúng ta đọc những lời than phẫn uất trong “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi . Hay ghi bút của sử thần Ngô Sỹ Liên, hậu thế chúng ta càng hiểu được những tội ác tày trời của một cuộc chiến tranh xâm lược từ phương bắc vào Đại Việt:
“Giáo mác đầy đường, đâu chẳng là giặc Minh cuồng bạo, sách vở cả nước đều trở thành đống tro tàn. Muốn tìm sự tích sót lại trong than, trong tro”
[Bài tựa, Ngô Sỹ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, tr20, NXB VHTT, 2004]
Để biết thật sâu, nhằm hiểu thật rõ những âm mưư đen tối, những tội ác đất không dung trời không tha từ Minh thành tổ và đội quân xâm lược phương bắc gây ra cho Đại Việt. Không thể không nhắc tới tác phẩm: “Việt Kiệu thư” do Lý Văn Phượng người đời Minh soạn. Tác phẩm lưu giữ toàn bộ các chiếu thư của Minh thành tổ gửi Chu Năng, Trương Phụ, Trần Húc, Lưu Tuấn trong quá trình xâm lược Đại Việt giai đoạn này.
Năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406) Minh thành tổ phát động cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt, “Minh sử” chép:
“Tháng 7, cho Chu Năng làm chinh di tướng quân, Mộc Thạnh và Trương Phụ làm phó, đem quân chia đường sang đánh An Nam. Lại lấy binh bộ thượng thư Lưu Tuấn làm tham tán quân vụ, hành bộ thượng thư Hoàng Phúc và đại Lý Khanh Trần Hiệp đốc biện lương hướng”
[Minh sử, q1, tr87 tầng trên và tầng dưới, tr5 (bản dịch) TL/LS khoa sử,
ĐH KHXH&NV. KH: TL/LS 0029]
Từ 15/7 năm 1406 đến 20/9/1406 Minh thành tổ đã gửi 14 chiếu thư cho tổng binh quan chinh di tướng quân thành quốc công Chu Năng. Nội dung 14 chiếu sắc quá dài, chỉ xin lược dẫn một số nội dung chính đơn cử như sau:
a, Chiếu thứ nhất: Năm thứ 4 Vĩnh Lạc, tháng 7 nhuận ngày mồng 4
“Sắc cho bọn tổng binh quan chinh di tướng quân thành quốc công Chu Năng biết… Mười việc kê sau:
3, Quân vào nước An Nam trừ bản kinh và sách kinh vệ thích, đạo thì không hủy, còn nhất thiết các bản in sách, văn tự cho đến những câu quê tục, câu trẻ con học như loại “thương đại nhân” “khưu ất dĩ” mảnh giấy một chữ cũng đều đốt hủy đi hết. Ở trong nước ấy hễ có cái bia nào của Trung Quốc đã lập từ ngày trước thì để lại, nhưng chỉ cái nào mà là của An Nam thì hủy đi hết, một chữ chớ để còn lại.
4, Hỏi xem cột đồng thời cổ ở chỗ nào cũng tiện phá nát, quẳng ra đường, để cho quốc nhân biết.
5, Hỏi dò khắp trong nước có những người tinh tế thông hiểu, giỏi về mưu lược cùng bọn gian trá quỷ quyệt đều cho cả vào hang hoài tài bão cao, cử lên hết cho đưa về kinh (nhà Minh).
6, Các hạng thợ và nhạc công người nước ấy tìm ra hết, cùng cả gia thuộc, đưa về kinh sư (nhà Minh)…”
[Việt Kiệu thư, tr101 – 102, q1 – q2 (bản dịch) TL/LS khoa sử,
ĐH KHXH&NV. KH: TL/LS 0003]
b, Chiếu thứ 2
“Năm thứ 2, niên hiệu Vĩnh Lạc tháng 8 ngày mồng 1 (1406) sắc cho bọn tổng binh quan, chinh di tổng quân thành quốc công Chu Năng biết…
18 việc kê ra như sau
…
12, Sau khi bình định được An Nam, có những người các hạng: sự, đạo, thầy thuốc, thầy cúng, bói toán, âm dương, thuật sô, đều phải đưa hết về kinh, việc ấy rất khẩn.
13, Các hạng người thợ thuyền, kỹ thuật phải tìm ra cho hết, cùng cả vợ con đưa hết về kinh đô…”
[Việt kiệu thư, q1 – q2 (bản dịch), tr108 – 109 TL/LS khoa sử,
ĐH KHXN&NV. KH: TL/LS 0003]
c, Chiếu thứ 3
“ Năm thứ 4, niên hiệu Vĩnh Lạc tháng 8 ngày 27 sắc…
Kê thêm 2 việc:
1, Trước đây dụ các người về việc đốt nhà ở, nay lập quận huyện phàm nhất thiết nhà cửa không thể đốt hủy được. Sau khi bình yên, tức thì dùng để ở, cần phải ngăn cấm quân sỹ…”
[Việt kiệu thư, q1 – q2 (bản dịch) tr110, TL/LS khoa sử,
ĐH KHXN&NV. KH: TL/LS 0003]
Chu Năng mất, Trương Phụ lên thay từ ngày 21/10/1406 đến ngày 17/2/1406 Minh thành tổ gửi cho Trương Phụ 54 chiếu thư chỉ đạo về chiến tranh xâm lược Đại Việt (Chúng tôi dẫn ra 4 sắc Minh thành tổ gửi Trương Phụ trong giai đoạn này.)
d, Chiếu thứ nhất
“Năm thứ 5 niên hiệu Vĩnh Lạc (1407) Ngày 9 tháng Giêng sắc cho tổng binh quan chinh di hữu phó tướng quân tân thành hầu Trương Phụ, hữu tham tướng vân dương bá Trần Húc, Binh bộ thượng thư Lưu Tuấn…
Tục thêm 3 việc
1, Một là: Những thợ làm hương, làm gạch không cứ thợ giỏi hay thợ vụng đều phải đưa hết về kinh sư cùng cả vợ con. Còn những người thợ khác nghề khác thì lục tục cùng cả vợ con cho đưa về sau.
Một là: cột đồng thời xưa, không biết ở chỗ nào, phải tìm tòi cho ra, đào lên đập nát bỏ ra ở đường…”
[Việt kiệu thư, q1 – q2 (bản dịch) tr116 – 117, TL/LS khoa sử,
ĐH KHXN&NV. KH: TL/LS 0003]
e, Chiếu thứ hai
“Năm thứ 5 niên hiệu Vĩnh Lạc (1047) ngày 19 tháng 5 xuống sắc rằng…
Tục thêm 2 việc:
2, Giao Chỉ có những bọn thầy thuốc, thầy cúng, thầy bói, phường nhạc, con hát, thợ hương, thợ gạch, các hạng người thợ khác kỹ nghệ phải tận số, cùng cả vợ con đưa về kinh. Có những người thân thể cao lớn, người biết bắn súng, người biết trộn thuốc đạn, người lái thuyền, giỏi am hiểu đường bể cùng các hạng người bắt sống động vật cùng cả vợ con đưa về kinh…”
[Việt kiệu thư, q1 – q2 (bản dịch) tr128, TL/LS khoa sử,
ĐH KHXN&NV. KH: TL/LS 0003]
f, Chiếu thứ 3
“Năm thứ 5, niên hiệu Vĩnh Lạc (1407) ngày 21 tháng 5 sắc cho tổng binh quan chinh di hữu phó tướng quân tân thành hầu Trương Phụ…
Tục thêm 1 việc:
Đã luôn luôn dụ bảo ngươi rằng phàm tất cả những bản in sách, văn tự của An Nam có, cho đến những bài quê kệch con trẻ học tập như loại: “Thượng đại nhân”, “khưu ất dĩ” MỘT MẢNH GIẤY, MỘT NỬA CHỮ cùng những bia khắc của nước ấy tự dựng, hễ thấy thì lập tức hủy hoại đi chớ để còn lại. Nay nghe thấy quân Trung có được những văn tự, lại không sai ngay quân nhân đốt hủy. Phải kiểm xem rồi sau hãy đốt, vả quân Trung nhiều người không biết chữ nếu nhất thiết làm như thế, tất đến chuyện bỏ sót mất nhiều. Từ nay ngươi phải y theo sắc trước ra lệnh cho quân Trung hễ gặp được hết thảy những văn tự của nước ấy sở hữu, lập tức đốt hủy không được để lưu lại…”
[Việt kiệu thư, q1 – q2 (bản dịch) tr130, TL/LS khoa sử,
ĐH KHXN&NV. KH: TL/LS 0003]
g, Chiếu thứ tư
“Năm thứ 5 niên hiệu Vĩnh Lạc (1407) ngày 16 tháng 5…
Tục thêm 2 việc
- Trừ chế dụ ra, nhất thiết những thư sắc phát đi, ký sự tiểu thiếp cùng tiểu sách thành quốc công (Chu Năng) mang đi và sự kiện điều hoạch đều kiểm tối mật. Phong tất cả nộp về không được lưu lại một chữ. Nếu có một chữ rơi sót ở đấy thì không tiện”
ĐH KHXN&NV. KH: TL/LS 0003]
h, Chiếu thứ năm
“Năm thứ 5, niên hiệu Vĩnh Lạc (1407) ngày mồng 1 tháng 8, sắc cho tổng binh quan chinh di hữu phó tướng quân tân thành hầu Trương Phụ…
Trẫm trước sai các ngươi hễ gặp kẻ đối địch cùng cự mệnh không phục, phải nên giết chết ngay đi. Nhà có người nào tuổi nhỏ thì đem hoạn đi dùng làm người đun nấu, ngõ hầu rộng bảo toàn sinh mệnh cho nó. Nay nghe thấy các ngươi đem những đứa vô tội nhất loạt hoạn thiến cả, sai hình pháp quá lắm vậy! Từ nay về sau, nên thể lòng trẫm, không nên làm tràn đến cả kẻ vô cớ, vậy sắc…”
[Việt kiệu thư, q1 – q2 (bản dịch) tr136, TL/LS khoa sử,
ĐH KHXN&NV. KH: TL/LS 0003]
14 chiếu sắc cho Chu Năng, 54 chiếu sắc gửi cho Trương Phụ còn cả trong “Việt kiệu thư” đều do Minh thành tổ ghi bút trong cuộc chiến xâm lăng Đại Việt kỷ nhà Hồ. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn trong tác phẩm “Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý” đã viết:
“Mong ai nấy nhận thấy một cách rõ ràng, cụ thể, sự nguy hiểm của một cuộc ngoại xâm, nhận thấy sự lo việc nước không phải chỉ ở đầu lưỡi, mà cần hết cả lòng hy sinh, trí sáng suốt để xếp đặt, tính toán”
[Lý Thường Kiệt Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý, tr16, NXB Hà Nội 2010]
Trong các cuộc chiến tranh vệ quốc của Đại Việt đã sinh ra các vị anh hùng dân tộc, mãi mãi lưu truyền danh thơm cho hậu thế. Nhưng bên cạnh đó cũng xuất hiện những nhân vật đã không đặt lợi ích đất nước, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, gia đình dòng họ mình. Thậm chí đã đứng hẳn về phía đối phương, bán rẻ quyền lợi chính trị cá nhân, bán rẻ đất nước cho kẻ thù.
Là hậu thế đang sống tại thế kỷ thứ 21, nhìn ngược lại lịch sử tổ tiên, cha ông mình từ thời lập nước đến nay chúng ta có những quan điểm như thế nào về lịch sử giữ nước và bảo vệ đất nước của nhà Mạc?
Trong cuốn “Kiến Văn tiểu lục” Lê Quý Đôn đã nhận định việc sơ hở của nhà Hồ, trách nhiệm lịch sử của nhà Hồ mở đường cho đám quân xâm lược phía bắc giày xéo đất nước suốt 20 năm như sau:
“Xem tập Bình định nam giao lục (Châu Tấn nhà Minh soạn) có thể biết được cái lỗi cha con nhà Hồ sơ hở, lầm lẫn, mở đường cho giặc kéo vào cướp nước và tài năng khí phách oanh liệt của vua tôi nhà Hậu Trần”
[Kiến văn tiểu lục, tr96, viện sử học xuất bản 2007]
Đó là quan điểm của một người con Đại Việt sinh sau sự kiện lịch sử này 300 năm (nhà Hồ), một danh nhân văn hóa Đại Việt, rồi chính từ một con người đó, có cái nhìn sự kiện lịch sử trước thời đang sống 150 năm (tại kỷ nhà Mạc) đối với vấn đề Trịnh Duy Liêu như sau:
“Trịnh Duy Liêu người xã Kim Bôi huyện Vĩnh Ninh phụng mệnh vượt biển sang Trung Quốc xin quân, Thế Tông nhà Minh cũng vì đấy cho quân đánh nhà Mạc…
Tuy công việc không thành nhưng chí khí tiết tháo đã vang cả trời đất…
Như Duy Liêu có thể gọi là người đại tài, đại trung, đại dũng trong nước”
[Kiến văn tiểu lục, tr318 – 319, viện sử học xuất bản, 2007]
Về sau, cách sự kiện lịch sử nhà Mạc khoảng 250 năm, các sử thần triều đình Nguyễn đã có những lời bình về việc Trịnh Duy Liêu vượt biển xin nhà Minh đem quân đánh nhà Mạc, “cương mục” chép:
“Người Minh ngờ rằng có sự dối trá. Duy Liêu bèn viết bức thư hàng vài ngàn lời, tự cho mình là người có nghĩa khí có thể sánh với Thân Bao Tư, Trương Tử Phòng, lời lẽ trong thư trung nghĩa mà đầy giọng căm hờn, hăng hái mà sục sôi tức bực, khiến người đọc phải xót xa”
[Việt sử thông giám cương mục, q14, tr1332 – 1333, NXB văn sử địa, 1959]
Cả 2 lời dẫn ở trên đều có chữ “trung nghĩa” như vậy chữ “trung” của nho giáo được hiểu như thế nào qua hành động của Trịnh Duy Liêu:
“trung thần bất sự nhị quân, quân sử thần tử, thần bất tử, bất trung”
Người bầy tôi trung thành không thờ hai vua, vua bảo bầy tôi phải chết, bầy tôi mà không chết là bất trung. Từ ảnh hưởng đó của nho giáo dẫn đến muôn vàn tình huống bất tương xứng, thậm chí đi ngược lại trách nhiệm đối với đất nước và dân tộc trong lịch sử Đại Việt. Nhìn lại lịch sử đất nước đã trôi qua gần 500 năm, chúng ta đánh giá gì về việc nhà Lê – Trịnh 4 lần cử sứ thần sang nhà Minh xin quân đánh nhà Mạc? Chúng ta đánh giá gì về 2 lực lượng nội ứng của Vũ Văn Uyên và nhà Lê trung hưng đem quân, voi, ngựa, vũ khí, vẽ đường, lập phương án, hợp đồng với giặc từ phương bắc kéo vào Đại Việt?
Trong khi đó với thời gian 150 năm nhà Mạc tồn tại trong chính trường Đại Việt, nhà Mạc đã một lần nào xin, mời người Minh vào trong nước giúp nhà Mạc chống lại Vũ Văn Uyên, chống lại nhà Lê Trịnh?
Ngay cả thời kỳ cát cứ tại Cao Bằng người họ Mạc chỉ dựa vào nhà Minh, nhà Thanh để giữ lấy phần đất cát cứ của họ. Chứ chưa 1 lần xin quân nhà Minh đánh lại đối phương của mình. Thậm chí sử cũ do sử thần Lê trung hưng soạn, họ còn chép cả di huấn của đại thần nhà Mạc: Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn:
“Lại chớ nên mời người nhà Minh vào trong nước ta, để đến nỗi dân ta phải chịu lầm than, đó cũng là tội không gì nặng bằng”
[Đại Việt sử ký toàn thư, q2, tr723, NXB VHTT, 2004]
Thật quá rõ ràng, cùng thời, cùng bị nho giáo chi phối, lập trường quang minh chính đại của nhà Mạc, các đời vua nhà Mạc có lập trường như vậy với đất nước với nhân dân. Liệu chúng ta có thể đổ lỗi cho chữ “trung” được chăng? Cũng đã có những phân ưu về quan điểm này của cụ Lê Khắc Hòe trong một bài báo cách ngày nay vài chục năm:
“Không biết gọi bọn Trần Thiêm Bình sang cầu quân Minh về đánh nhà Hồ. Bọn cựu thần nhà Lê sang Vân Nam xin quân Minh sang đánh nhà Mạc, vua Lê Chiêu Thống sang cầu quân Thanh sang đánh Tây Sơn… Không biết phải gọi bọn ấy là gì? Vì bọn ấy không chỉ dâng mấy làng, mấy động mà dâng cả giang sơn tổ quốc cho nước ngoài, đưa cả dân tộc vào vòng nô lệ”
[Mạc Đăng Dung và vương triều Mạc, tr93, hội khoa học lịch sử Việt Nam xuất bản, 2000]
- NHỮNG BIỆN PHÁP NHẰM HÓA GIẢI CHIẾN TRANH VÀ CÔNG TÁC QUÂN SỰ CHUẨN BỊ CUỘC CHIẾN TRANH VỆ QUỐC CỦA NHÀ MẠC.
Đại Việt với vị trí địa chính trị đặc biệt nằm sát cạnh một quốc gia quá lớn về diện tích, quá nhiều về dân số. Nước Trung hoa khổng lồ ấy đã sản sinh ra một học thuyết: Thiên triều là trung tâm, tứ di vây quanh, tứ di có nghĩa vụ phục tòng: Cầu phong, cống nạp, cậy nhờ sự bảo hộ từ thiên triều. Những can thiệp bằng quân sự nhằm thôn tính, bảo hộ, diễn ra từ mấy ngàn năm quanh các tứ di. Đại Việt luôn trong tầm ngắm thôn tính, Đại Việt mạnh ý chí, thôn tính giảm, Đại Việt lục đục, ý chí thôn tính phát triển theo cấp số nhân.
Nhà Mạc rơi vào tình huống thứ hai, Đại Việt lục đục. Cái mác “hưng diệt phế tuyệt” từ Thiên triều “cứu Trần diệt Hồ” nay đổi sang chữ “cứu Lê diệt Mạc” đang phả hơi suốt chiều dài biên giới từ tây sang đông. Bóng đen của một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn, với kế hoạch kết nối bốn lực lượng quân sự nước ngoài, hai lực lượng nội ứng trong lòng Đại Việt. Đã được lên phương án sắp sửa tràn qua biên giới với tổng số gần 30 vạn quân xâm lược. Giải quyết một cuộc chiến tranh, khống chế mối họa từ bên kia bên giới không đơn giản, như những gì người ta đã viết về nhà Mạc “dựa hẳn vào ngoại bang”, “hèn hạ”, “khiếp sợ”, “vì lợi ích dòng họ” nhẹ nhàng như bút viết trên tờ giấy mỏng…
Với những cái cớ “không nạp cống”, “loạn nghịch” nhà Minh đã lặp lại những thế võ “hưng diệt phế tuyệt” như lời tâu của Hạ Ngôn sau đây:
“An Nam không vào triều cống 20 năm nay. Thủ thần lưỡng quảng bảo Lê Huệ và Khoáng đều không phải là ngành trưởng của Lê Trửu đáng lập mà Đăng Dung và Trần Cảo đều là bọn thoán nghịch, nếu sai quan đi xét hỏi, tìm lấy những tên chính phạm, trước sứ giả đã bị nghẽn đường không đi được, thì nay nên tạm hoãn, đừng cho sứ sang vội. Vua cho rằng: “Việc loạn nghịch ở An Nam đã được rõ ràng nên kíp sai quan đi khám xét vua lại sai Hạ Ngôn với bộ binh thảo luận về việc đem quân sang đánh An Nam”
[Minh sử 321, qIII, tr3532 – 3547, tr104- 105, bản dịch. TL/LS khoa sử,
ĐH KHXH&NV. KH: LS/TL 0030]
Bất kể một cuộc chiến tranh vệ quốc nào thắng lợi hay thất bại cũng bắt nguồn từ quyền lực của nhân dân, hội nghị “Diên Hồng” kỷ nhà Trần, hội nghị chiến tranh của nhà Hồ và một hội nghị do triều đình nhà Mạc tổ chức để bàn về chiến tranh vệ quốc đã được “Thông sử” chép:
“Đăng Doanh rất sợ! Liền tu sửa trại sách, luyện tập thủy quân. Trưng cầu hết thảy các cựu thần, lão tướng để cùng bàn việc nước”
[Thông sử, tr343, viện sử học xuất bản, 2007]
Một hội nghị “Diên Hồng” vào thời Mạc để lo việc nước, đâu chỉ có người họ Mạc, bách tính Đại Việt cùng lo việc non sông khi đất nước đang lâm nguy và cũng chính từ nhân dân một cuộc chiến tranh toàn diện đã khởi động.
“Người Châu Giao cũng rất lo sợ, hái thuốc độc để thử gươm giáo, lấy bột bã đậu để bỏ vào dòng nước, cắt ống đồng chôn xuống đất nhằm hãm chân ngựa. Phao tiếng rằng đội tiền tiêu đã do đường thủy đi đánh úp Quảng Đông”…
[Thù vực chu tử lục, tr132, TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV. KH: LS/TL 0089]
Không dừng ở mức độ, “phao tiếng” những đại đội thủy quân lục chiến tinh nhuệ (như đặc công nước ngày nay) theo đường thủy âm thầm đổ bộ, bí mật tiếp cận các mục tiêu cần tác chiến tại Quảng Đông, Quảng Tây nhà Minh. Đánh úp từ sau lưng địch. “Minh thực lục” chép:
“[1245] Ngày 22 tháng 10 năm Gia Tĩnh thứ 22 (18/11/1543) tha cho Đỗ Văn Trang trinh sát người An Nam vào mùa xuân năm Gia Tĩnh thứ 16 (1537) An Nam được tin sẽ bị chinh phạt bèn sai đầu mục Nguyễn Văn Đô điều động Đỗ Văn Trang cùng 70 người đổ bộ tại bờ biển Ô Lôi. Bọn tuần kiểm Tần Lương mang binh bắt được Văn Trang bèn nhốt vào ngục tại ty án sát Quảng Đông. Nay Mạc Đăng Dung đã hàng, các quan tại Quảng Đông cho rằng Mạc Đăng Dung đã được miễn tội chết vậy xin tha cho Trang. Nhận phúc đáp: chấp thuận”
[Minh thực lục v83, tr5445 – 5446, thế tông, q279, tr8a – 8b, tr224
(bản dịch), NXB Hà Nội, 2010]
72 người lính cảm tử này của nhà Mạc chúng ta chỉ biết được hai danh tính tiêu biểu: Nguyễn Văn Đô, Nguyễn Văn Trang, còn lại 70 con người khác, hàng ngàn người chiến sỹ vô danh khác của nhà Mạc âm thầm tham gia vào một cuộc chiến tranh sau lưng địch. Chúng ta không thể biết được danh tính, nhân thân họ, trong một cuộc chiến âm thầm chuẩn bị vệ quốc của nhà Mạc.
Tương kế tựu kế, biết mình biết địch, nút thắt lịch sử cuối năm 1540 xảy ra tại biên giới Đại Việt là tổng hòa mối tương quan nhiều mặt của một cuộc chiến tranh vệ quốc. Mỗi một chủ trương sách lược của nhà Mạc chứa trong nó là truyền thống từ xa xưa của tổ tiên giữ nước, đồng thời tránh những vết xe đổ của quá khứ. Đọng lại cùng với thời gian là những kế sách trong công tác “tình báo” và công việc “địch vận” của nhà Mạc, đã thu được những kết quả từ thực tiễn, minh chứng từ các nguồn sử liệu khác nhau, được chúng tôi trình bày ở phần trên.
Vào thời điểm hội thảo lịch sử nhà Mạc tại hoàng thành Thăng Long năm 2010 cố PGS – TS Nguyễn Hải Kế đã cung cấp cho chúng tôi một bài tấu do thừa chính sứ Bùi Hoằng trình tâu lên thái thượng hoàng Mạc Đăng Dung và vua Mạc Đăng Doanh vào năm Kỷ Hợi (1539).
“1173 – Bùi Hoằng (1506 – ?) người xã Thượng Trưng, huyện Bạch Hạc nay là xã Thượng Trưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.
33 tuổi đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Mậu Tuất niên hiệu Đại Chính 9 (1538) đời Mạc Đăng Doanh. Làm quan đến thừa chính sứ, tước An Thủy bá, về trí sĩ.”
[Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 – 1919, Ngô Đức Thọ chủ biên, tr342, NXB văn học, 2006]
Nội dung bản tấu là những phương lược, kế sách an nguy của xã tắc và các biện pháp nhằm cứu nước cứu dân trước một cuộc chiến tranh xâm lược đang phủ bóng đen suốt chiều dài biên giới phía bắc (PGS – TS Nguyễn Hải Kế cho biết, bản tấu này được ghi chép tại gia phả chi họ Bùi):
“Muôn tâu thánh thượng!
Thần trộm nghĩ:
Đức lớn của trời đất là sinh
Cái quý nhất của thánh nhân là vị
Nhờ gì mà giữ được vị?
Nhờ điều nhân
Nhờ gì mà tụ họp được nhiều người?
Nhờ hiền tài.
Lời thánh hiền căn chỉ nay thần mạo muội có sao nói vậy. Như nhà Hồ giành được ngôi vị không biết nuôi dân đến nỗi phải diệt thân tự tay trói mình nộp cho giặc thế chẳng phải xót xa sao?
Phương Nam Nguyễn Kim tiến đánh Lôi Dương đã chiếm được Tây Kinh, quân ta tan tác. Phương Bắc Minh Gia Tĩnh xua bọn Mao Bá Ôn, Cừu Loan cầm quân tràn xuống. Nạn đại hồng thủy ập đến một sớm một chiều, thật là nguy cấp lắm.
Nay thái thượng hoàng nối ngôi vị nhà Lê thay trời hành đạo. Đạo trị nước chỉ là yên dân, dân được an hòa thì trời sẽ thuận, tai họa sẽ qua. Xin thái thượng hoàng để ý đến dân, có dân mới có vương công xã tắc. Nay một chính sự được thi hành để cứu dân, cứu xã tắc là cẩn cấp. Với nhà Minh chấp thuận “khổ nhục kế”, trước là bỏ đế hiệu tiếm xưng vương, sau là tuân theo niên lịch đăng quang với nhà Minh.
Với nội quốc: trước là điều chỉnh thuế khóa, cởi nới phục dịch để nuôi dân. Sau là điều chỉnh hiến chương để dạy dân chấp hành kỉ pháp được như vậy là quốc triều hưng thịnh.
Thần có đôi lời tấu hiến nếu có điều gì chưa thuận mong thái thượng hoàng ngự lãm mà minh xét.
Niên Kỉ Hợi – thái thượng hoàng – hoàng thượng vạn vạn niên.
Đức trai cẩn tấu!”
Mọi cuộc chiến tranh đều kết thúc, mọi sự kiện lịch sử được chép hồi kết, sự kiện lịch sử “đầu hàng” của Mạc Thái Tổ tại biên giới cuối năm 1540 là cái kết của một quá trình vận động khách quan tương kế, tựu kế, lấy nhu thắng cương của nhà Mạc.
Năm cái lạy, ba cái cúi đầu trước cái long đình che tàn vàng vô tri vô giác ấy tại biên giới của Mạc Thái Tổ, vào ngày mồng 3 tháng 11 năm 1540 là cả một sự hy sinh thầm lặng, có sức nặng ghê gớm của lịch sử đặt lên hai vai ông:
“Tiểu mục nước ấy là bọn Trần Phỉ đến các dinh Niêm Nhai, trình bày sự thành tâm xin hàng và đợi lệnh…
Ngày 3 tháng 11… đến kỳ đã hẹn Mạc Đăng Dung mặc áo trắng, thắt dây tổ, tự mình đem các tiểu mục già cả, quàng dây lụa ở cổ, đứng chầu ở cửa Nam Quan.
Trên đài đặt chiếc long đình, che tàn vàng các viên phó tham giám thống vệ ba ty ở Lưỡng Quảng bày hàng ra đứng đợi. Truyền lệnh mở cửa quan, Đăng Dung với cháu là bọn Văn Minh do đường bên tả cửa quan đi ra, bỏ giày đi chân không quỳ xuống trở mặt về hướng bắc.
Truyền sai sinh viên là Tạ Thiên Túng cởi dây tổ ra và tiếp nhận tờ biểu xin hàng. Đăng Dung cúi mình lạy 5 lạy, khấn đầu 3 cái, sau đó bọn cháu nó cũng lần lượt làm lễ theo đúng nghi thức. Người chấp sự tuyên dụ tạm tha, cho chịu tội về nước đợi chờ, sẽ chuyển tấu cho được khỏi chết.
Đăng Dung khấn đầu tạ xong, truyền lính đóng cửa quan thu quân về dinh. Cháu là bọn Văn Minh người tiểu mục đi theo bọn Hứa Tam Tỉnh cộng 28 người”
[Thù vực chu tư lục, tr132 – 133, TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV.
KH: LS/TL 0089]
Đất nước hòa bình, chuyển sang một giai đoạn mới không chia ty, tách tỉnh, vua nhà Mạc trị vì nước Việt, người nước Việt giải quyết nội tình nước Việt. Những toan tính, áp đặt từ bên kia biên giới đã bị vô hiệu hóa hoàn toàn.
“Minh sử” chép:
“Vua bèn xuống chiếu đổi nước An Nam làm đô thống ty, ban cho một cái ấn bằng bạc và cho Đăng Dung làm đô thống sứ. Sau khi đem quân về triều, bọn Bá Ôn được thăng thưởng có sai đẳng khác nhau. Nhưng Đăng Dung là một người giảo quyệt, biết rằng Trung Quốc không muốn dùng binh nên nghỉ (Mạc Đăng Dung) chỉ cho đem lễ vật vào tạ một lần, rồi thôi không triều cống nữa và tự do xưng đế ở trong nước”.
[Minh sử, t49, q120, tr61a – 66b, tr149 – 150 (bản dịch) TL/LS khoa sử,
ĐH KHXH&NV. KH: LS/TL 0032]
Hoặc “Minh sử” ghi chép những dòng sau:
“Vua bèn xuống chiếu bãi binh và giáng nước An Nam xuống làm Đô thống ty và phong cho Đăng Dung làm chức đô thống sứ. Nhưng kỳ thực thì An Nam chưa đổi làm ty, mà Đăng Dung cũng chưa nhận chức Đô thống sứ”
[Minh sử, t42, q102, tr67a – 71a, tr115 (bản dịch) TL/LS khoa sử,
ĐH KHXH&NV. KH: LS/TL 0032]
Sự kiện số IV, nhà Mạc đầu hàng nhà Minh tới đây chúng tôi xin khép lại, đó là kết quả cuối cùng tiến trình lịch sử kéo dài từ năm 1527 đến cuối năm 1540 trong chính sách đối ngoại của nhà Mạc giai đoạn này.
- KẾT LUẬN SỰ KIỆN SỐ IV
“Lịch sử nhận thức” ra đời từ các sử gia Lê trung hưng điều hành, dẫn hướng lập một phiên tòa xuyên qua ba thế kỷ với một bản cáo trạng ước chừng vài vạn từ, nhằm vào lịch sử nhà Mạc. Hiệu quả đáng kinh ngạc từ bản cáo trạng của “lịch sử nhận thức”, vô hình chung đã biến những người họ Mạc, gốc Mạc (hậu thế) chúng tôi thành những bị can (tòng phạm) suốt thời gian từ (1697 – 2017). Với hình thái tổ chức một phiên tòa, gồm có các luật sư biện hộ bào chữa khá khiêm tốn, các công tố viên chiếm đa phần, nhiều tội danh: “phản quốc”, “hai lần cắt đất Đại Việt”, “đem dâng một phần đất của tổ quốc cho kẻ thù”, tội của chúng là: “đáng chém”, chúng: “lấy gì để biện bạch” đã được tuyên đọc. Không thể thống kê được hết những bản cáo trạng luận tội nhà Mạc, chỉ gần đây thôi một bản cáo trạng cỡ trung (khoảng 3000 từ) được soạn từ PGS – TS Trần Thị Băng Thanh, nhân Hà Nội đặt tên đường hai vị vua nhà Mạc. Hoặc, “việc cắt đất cho nhà Minh là kế lấy lùi để tiến, thể hiện sự khôn khéo trong ngoại giao” được sinh viên học viện ngoại giao đọc cáo trạng tại diễn đàn phản biện lịch sử nhà Mạc (do bảo tàng lịch sử quốc gia chủ trì). Cứ như vậy, những phiên tòa lưu động vô hình xuyên qua ba thế kỷ khắp mọi miền đất nước được lập ra luận tội nhà Mạc, người họ Mạc, gốc Mạc, chúng tôi lúc nào cũng đóng vai bị can….
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét