Thứ Ba, 12 tháng 1, 2010

Đoàn tụ ở đất phương Nam



DẠY VÀ HỌC
. "Em về Châu Đốc Long Xuyên / Anh lên Srê pok với niềm nhớ thương/ Nằm đêm lưng chẳng tới  giường/ Nghe chao cánh võng giữa rừng canh khuya". Gặp Hoàng Bình, tôi lại nhớ Long Xuyên , nhớ Srê pok, nhớ kỹ niệm một thời , thuở mà tôi đã viết liền mạch hai bàì họa thơ  "Chèo thuyền trên sông Vôn ga " của Hoàng Bình. Tôi gặp Bình trong tiệc cưới và ngõ lới muốn anh chép lại bài thơ trên. Đất phương Nam đã là nơi đại gia đình chúng tôi đoàn tụ

 


Nguồn Son huyền thoại

Tôi sinh ra và lớn lên ở Quảng Bình, một tỉnh nghèo ven biển miền Trung. Ký ức tuổi thơ gắn với sông Giang (Linh Giang) huyền thoại. Cha mẹ làm nghề nông nhưng cha cũng làm thêm nghề chèo đò. Ông đã từng cứu người chết đuối và được đền ơn bằng lời khuyên đổi tên tuổi thơ cho tôi từ Hoàng Minh Kim thành Hoàng Kim mà tôi sẽ kể vào một dịp khác.

Nhà tôi ở ngã ba sông của rào Nan và nguồn Son. Đường sông lối nguồn Son vào động Phong Nha khá gần. Thuở nhỏ đi hái củi tôi vẫn thường qua lại hang động. Sau này động Phong Nha đã trở thành danh thắng nổi tiếng thế giới gắn với sông Gianh, đèo Ngang của tuổi thơ và biển Quảng Bình.

Biển

Anh yêu biển tự khi nào chẳng rõ
Bởi lớn lên đã có biển quanh rồi
Gió biển thổi nồng nàn hương biển gọi
Để xa rồi thương nhớ chẳng hề nguôi

Nơi quê mẹ mặt trời lên từ biển
Mỗi sớm mai gió biển nhẹ lay màn
Ráng biển đỏ hồng lên như chuỗi ngọc
Nghiêng bóng dừa soi biếc những dòng sông

Qua đất lạ ngóng xa vời Tổ Quốc
Lại dịu hiền gặp biển ở kề bên
Khi mỗi tối điện bừng bờ biển sáng
Bỗng nhớ nhà những lúc mặt trăng lên

Theo ngọn sóng trông mù xa tít tắp
Nơi mặt trời sà xuống biển mênh mông
Ở nơi đó là bến bờ Tổ Quốc
Sóng yêu thương vỗ mãi đến vô cùng …

Lớn lên, tôi ra học Đại Học Nông nghiệp 2 ở Đồn Lương, Việt Yên, Hà Bắc và nhập ngũ năm 1971 cùng đợt với Nguyễn Văn Thạc. Ngày lên đường có sự thầm yêu thương của người bạn gái cùng lớp mà mãi sau này trong sổ tay chiến sĩ tôi còn trân trọng giữ gìn hai bài thơ thuở đó:

Tình em

Em trao duyên cho anh
Anh nén lòng
Dành
Đợi

Em lấy chồng rồi
Anh nợ mãi
Tình em

Qua sông Thương gửi về bến nhớ

Ta lại hành quân qua sông Thương
Một đêm vào trận tuyến
Nghe Tổ Quốc gọi lên đường!
Mà lòng ta xao xuyến
Và hồn ta căng gió reo vui
Như dòng sông Thương chảy mãi về xuôi
Hôm nay ta ra đi
Súng thép trên vai nóng bỏng

Không qua nhịp cầu ngày xưa soi bóng
Phà đưa ta sang sông
Rạo rực trời khuya, thao thức trong lòng
Rầm rập dòng sông sóng nhạc
Như tình thân yêu muôn vàn của Bác
Tiễn đàn con ra đi

Tầu cập bến rầm rì tiếng máy
Tiếng động cơ sục dưới khoang tàu
Hay sôi ở trong lòng đất cháy
Hay giữa tim ta thúc giục lên đường
Chào bờ Bắc thân yêu hẹn ngày trở lại!

Ôi những con thuyền đèn trôi suốt canh khuya
Có khua nhẹ mái chèo qua bến cũ
Nhắn cho ai ngày đêm không ngủ
Rằng ta đi chưa kịp báo tin vui

Đêm nay bên dòng nước nghiêng trôi
Sông vẫn thức canh trời Tổ Quốc
Rạo rực lòng ta bồi hồi tiếng hát
Đổ về bến lạ xa xôi
Với biển reo ca rộng mở chân trời

Dòng sông tuổi xuân thao thiết chảy. Năm 1972, tại Tây Nguyên tôi có kỷ niệm không thể quên về những ngày đói gạo, ăn rau rừng và câu cá ven sông Srêpok gần Buôn Đôn. Nhớ buổi câu cho bữa cơm người bạn sốt rừng ốm nặng thèm ăn cá.Đây là bài thơ khóc bạn.

Câu cá bên dòng Srêpok

Bạn chèo thuyền trên sông Vôn ga
Có biết nơi này mình câu cá?
Srêpok giữa mùa mưa lũ
Sốt rừng, muỗi vắt, đói cơm

Suốt dọc đường hành quân
Máy bay,
pháo bầy,
thám báo,
mưa bom
Chốt binh trạm giữa rừng
Người bạn thân
Lả người
Vì cơn rét đậm
Thèm một chút cá tươi
Mình câu cá
Cho bữa cơm cuối cùng của người thân
mà nước mắt
đời người
rơi, rơi...
mặn đắng

Bạn ơi
Con cá nhỏ trên dòng Srêpok
Nay đã theo dòng thác lũ cuốn đi rồi
Đất nước nghìn năm
Trọn một lời thề
Sống chết thủy chung
với dân tộc mình
Muôn suối nhỏ
Đều đi về biển lớn.


 Đất Phương Nam nơi đại gia đnh đoàn tụ







Sau ngày đất nước thống nhất đến năm 1977, tôi về lại mái trường thân yêu học tiếp Đại học Nông nghiệp. Tốt nghiệp ra trường, trên một phần tư thế kỹ liên tục gắn bó với những nghiên cứu chọn giống và thâm canh cây trồng ở Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh và trên ruộng nông dân tại Đông Nam Bộ và các tỉnh miền Trung, Tây Nam Bộ, Tây Nguyên...Tôi đã đi qua hầu hết các tỉnh thành trong cả nước và hầu hết các châu lục trên thế giới, được ngắm nhìn nhiều dòng sông ở nhiều vùng văn hóa khác nhau.

Tới nơi đây, mảnh đất  thiêng liêng phương Nam của đất nước, được đón bình minh nơi hợp lưu của những dòng sông lớn, lòng tôi trào dâng niềm xúc động bồi hồi. Dòng sông quê hương, dòng sông tuổi thơ, dòng sông tình yêu suốt đời thao thiết chảy. Tôi đã ra đi từ dòng sông quê hương miền Trung, tới phương Bắc, về phương Nam và nay chọn đất phương Nam làm quê hương thứ hai. ‘‘Dân Việt nghìn năm xuôi lấn biển/Tựa lưng vào núi hướng về Nam/ Thoáng chốc nghìn năm nhìn trở lại/ Tháp vàng, hoa trắng, nắng Mekong”. Cửu Long là sông lớn nhất của đất phương Nam,  nơi sông trăng hiền hòa, lồng lộng đi ra biển lớn. Tôi thích đọc những chấm phá về người và đất phương Nam có trong các trang văn của Nguyên Ngọc, Sơn Nam, Nguyễn Ngọc Tư, Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng, Trang Thế Hy, Nguyễn Một .... và bất giác nhớ đến bài thơ:

Điểm hẹn

Anh như chim ưng quay về tổ ấm
Vẫn khát bầu trời ước vọng bay lên
Ơi Bồng Lai cồn cào nỗi nhớ
Anh về bên này lại nhớ bên em.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét


Em ơi em, can đảm bước chân lên


Nguyễn Khoa Tịnh

Thầy ước mong em
noi gương Quốc Tuấn


Đọc thơ em, tim tôi thắt lại 
Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng 
Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng 
Xót xa vì đời em còn thơ dại 
Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải 
Mới biết cười đã phải sống mồ côi 
Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi 
Như chiếc lá bay về nơi vô định 
“Bụng đói” viết ra thơ em vịnh: 

“Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai 
Có biết lòng ta bấy hỡi ai? 
Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng 
Kể chi no đói, mặc ngày dài” 


Phải! 
Kể chi no đói mặc ngày dài 
Rất tự hào là thơ em sung sức 
Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực 
Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang” 

“Trung dũng ai bằng cái chảo rang 
Lửa to mới biết sáp hay vàng 
Xào nấu chiên kho đều vẹn cả 
Chua cay mặn ngọt giữ an toàn 
Ném tung chẳng vỡ như nồi đất 
Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang 
Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão 
Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”


Phải! 
Lửa to mới biết sáp hay vàng! 
Em hãy là vàng, 
Mặc ai chọn sáp! 
Tôi vui sướng cùng em 
Yêu giấc “Ngủ đồng” 
Hiên ngang khí phách: 

“Sách truyền sướng nhất chức Quận công 
Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng 
Lồng lộng trời hè muôn làn gió 
Đêm thanh sao sang mát thu không 
Nằm ngữa ung dung như khanh tướng 
Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng 
Tinh tú bao quanh hồn thời đại 
Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong” 


Tôi biết chí em khi "Qua đèo Ngang” 
Ung dung xướng họa với người anh hùng 
Đã làm quân thù khiếp sợ: 

“Ta đi qua đèo Ngang 
Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm 
Đỉnh dốc chênh vênh 
Xe mù bụi cuốn 
Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ 
Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ 
Điệp điệp núi cao 
Trùng trùng rừng thẳm. 
Người thấy 
Súng gác trời xanh 
Gió lùa biển lớn 
Nông dân rộn rịp đường vui 
Thanh Quan nàng nhẽ có hay 
Cảnh mới đã thay cảnh cũ. 
Ta hay 
Máu chồng đất đỏ 
Mây cuốn dặm khơi 
Nhân công giọt giọt mồ hôi 
Hưng Đạo thầy ơi có biết 
Người nay nối chí người xưa 

Tới đây 
Nước biếc non xanh 
Biển rộng gió đùa khuấy nước 
Đi nữa 
Đèo sâu vực thẳm 
Núi cao mây giỡn chọc trời 

Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai 
Thương dân nước, thà sinh phận gái 
“Hoành Sơn cổ lũy” 
Hỏi đâu dấu tích phân tranh? 
Chỉ thấy non sông 
Lốc cuốn, bốn phương sấm động. 

Người vì việc nước ra đi 
Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế 
Điều không hẹn mà xui gặp mặt 
Vô danh lại gặp hữu danh 
Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau 
Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất 
Anh em ta ngự trên xe đạp 
Còn Người thì lại đáp com măng 
Đường xuyên sơn 
Anh hùng gặp anh hùng 
Nhìn sóng biển Đông 
Như ao trời dưới núi. 

Xin kính chào 
Bậc anh hùng tiền bối 
Ta ngưỡng mộ Người 
Và tỏ chí với non sông 
Mẹ hiền ơi! 
Tổ Quốc ơi! 
Xin tiếp bước anh hùng!” 


Hãy cố lên em! 
Noi gương danh nhân mà lập chí 
Ta với em 
Mình hãy kết thành đôi tri kỷ! 
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương 
Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em: 

"Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền 
Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên 
Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ 
Thương dân, yêu nước quyết báo đền 
Văn hay thu phục muôn người Việt 
Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên 
Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn 
Nối chí ông, nay cháu tiến lên!” 


Tôi thương mến em 
Đã chịu khó luyện rèn 
Biết HỌC LÀM NGƯỜI ! 
Học làm con hiếu thảo. 
Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo” 

Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo 
Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương 
Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp 
Giọng líu lo như chim hót ven đường. 

Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu 
Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn 
Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến 
Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!


Tổ Quốc đang chờ em phía trước. 
Em ơi em, can đảm bước chân lên!

1970