Chủ Nhật, 26 tháng 12, 2010
Lời yêu thương
Khoác thêm tấm áo trời se lạnh
Đông tàn xuân đã đến rồi em
Phúc hậu mỗi ngày chăm việc thiện
Yêu thương xa cách hóa gần thêm
Loving word
Wearing sweater when it's rather cold.
Winter comes to an end ,and early Spring is coming.
Everyday, we care good deeds kindly.
Distant love turns out to be close together.
HK
Thứ Bảy, 18 tháng 12, 2010
Giáo sư Trần Văn Giàu bài học lớn trong câu chuyện nhỏ
DẠY VÀ HỌC. Giáo sư Trần Văn Giàu (1911–2010)[1] là nhà hoạt động cách mạng, nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử, triết học và nhà giáo Việt Nam. Ông qua đời vào lúc 17 giờ 20 phút ngày 16 tháng 12 năm 2010, tại Bệnh viện Thống Nhất, TP.Hồ Chí Minh. Giáo sư là một người Thầy nhân cách, trí tuệ., người chủ một gia tài đặc biệt)[2], trăm năm vui giữa nhân gian)[3], một năm trong một trăm năm)[4] với muôn vàn thương yêu của cộng đồng dân tộc. Trong các trang sử đổ mồ hôi và những vấn đề vượt lên trên sử của giáo sư có minh triết ông cha và bản lĩnh dân tộc Việt. "Nhân cách Trần Nhân Tông" là một trả lời ngắn, rất ngắn của giáo sư đối với một vấn đề lớn, rất lớn. Bài học lớn trong câu chuyện nhỏ.(Hoàng Kim sưu tầm tư liệu TƯỞNG NHỚ BÁC TRẦN VĂN GIÀU và viết cảm nhận)
NHÂN CÁCH TRẦN NHÂN TÔNG
Vào lúc 10/11/2002 lúc 10g30 sáng, tại tư gia Giáo sư Trần Văn Giàu quận 11 thành phố Hồ Chí Minh.
Đạo sư Duy Tuệ (ĐSDT) cùng nhà báo nhà văn Việt Anh , kỹ sư Phạm Bá Quang và bà Nguyễn Thị Bạch Liễu đến thăm Giáo sư Trần Văn Giàu. Nội dung trao đổi giữa ĐSDT và GS.Trần Văn Giàu: Những vấn đề cơ bản về con người Trần Nhân Tông có thể nói trong Hội thảo Khoa học về "Cuộc đời và sự nghiệp Trần Nhân Tông" do Trung tâm Unesco Nghiên cứu và Ứng dụng Phật học Việt Nam phối hợp cùng Đại học Khoa học Tự nhiên Huế sắp tổ chức tại Huế.
ĐSDT: Thưa Giáo sư , trong hội thảo khoa học sắp tới nên đề cập đến những vấn đề gì về cuộc đời và sự nghiệp của Người?
GS. Trần Văn Giàu: có nhiều chuyện để nói và nhiều người đã nói và nói nhiều rồi. Vấn đề là làm sao nói cho thật hay. Có lẽ tôi đọc khá nhiều về sử các nước trên thế giới nhưng chưa tìm thấy lịch sử nước nào có một người đặc biệt như Trần Nhân Tông ở Việt Nam. Người (tôi mở ngoặc chữ Người phải viết hoa chữ N) đặc biệt ở chỗ nào?
Tại nước Tàu lúc bấy giờ Triều đình nhà Tống rất hùng mạnh nhưng quân Nguyên Mông đã tràn xuống đánh thắn thần tốc , đến nỗi vua quan nhà Tống phải chạy ra biển và nhảy xuống biển tự vẫn. Tại Tây Á, Trung Á và một phần châu Âu cũng thua thảm hại , đến nỗi Giáo hoàng La Mã cũng lên tiếng sợ hãi.
Trong lúc ấy Việt Nam so với phương Bắc thì quá nhỏ bé và quá nghèo yếu, thế mà Người dám không cho Nguyên Mông mượn đường xâm lược Chiêm Thành. Lại còn đánh bại ba lần Nguyên Mông xâm lược. Sau khi thắng giặc, Người lại lên núi sống. Người dám nghĩ, dám làm những việc không ai dám nghĩ chứ đừng nói đến làm !
ĐSDT: Thưa Giáo sư có học giả cho rằng nhờ tinh thần đạo Phật , tinh thần vô ngã của đạo Phật mà Trần Nhân Tông mới dũng cảm như vậy?
GS. Trần Văn Giàu: Có bao nhiêu người theo đạo Phật nhưng có ai giống như Người không? có ai có lý tưởng như Người không? Còn nói về tinh thần yêu nước thì đương nhiên rồi nhưng theo tôi thì chưa đủ. Chúng ta nên chú ý đến tình thương . Có lẽ vì lòng thương người quá lớn nên mới bản lãnh như vậy.
ĐSDT: Chúng ta có nên đề cập đến vấn đề châu Ô châu Rí không?
GS. Trần Văn Giàu: Có lúc nói, có lúc không. Chúng ta dưa vào lịch sử để nói , nhưng chúng ta không nên đi quá nhiều về lịch sử, bây giờ thì không cần nói vấn đề đó. Qua lịch sử, chúng ta nói về những vấn đề vượt lên trên lịch sử. Qua lịch sử ta nói đến con người, nhân cách của Người. Từ nhân cách ấy, cho ta thấy nhân cách của một dân tộc. Một đất nước sản sinh ra được một con người có một không hai trên thế giới, thử hỏi đất nước ấy và dân tộc ấy có đặc biệt hay không ?
Từ hôm nay về sau tôi không viết sử nữa. Tôi bắt đầu viết về những vấn đề vượt lên trên sử, có thể giới thiệu cho thế hệ này, nhưng cũng có thể cho thế hệ sau, cũng chưa vội.
Từ nay cho đến khi hội thảo sẽ có nhiều người cùng đóng góp nội dung cho hội thảo, riêng tôi sẵn sàng trao đổi với Ban tổ chức những điều quý vị nêu ra. Tôi nhận làm cố vấn thực tiễn cho nội dung của hội thảo, nhưng ban tổ chức thông cảm, tôi quá già yếu không thể đi xa được, xin mời quý vị đến đây cùng trao đổi.
ĐSDT: Xin cám ơn Giáo sư
Nhà báo nhà văn Việt Hà ghi
(Rút trong tập: Những lời dạy về Phật của Trần Nhân Tông. Trung tâm UNESCO nghiên cứu và ứng dụng Phật học Việt Nam, trang 59-61)
Xem thêm:
Trí tuệ bậc Thầy của cặp song sinh thế kỷ
BÁC TRẦN VĂN GIÀU LÀ NGƯỜI TẬN LỰC VÀ THỨC THỜI
Bác Trần có sách hay (1), trò giỏi (2), thầy quý (3) vợ hiền (4) bạn đồng hành thế kỷ (5) và sống phúc hậu giữa lòng dân. Bác không tiếp tục làm nhà cách mạng, nhà tư tưởng, nhà lãnh đạo quốc gia nhưng lại thung dung làm nhà sử học, nhà văn hóa, nhà giáo dục. Sự nghiệp ấy, thời thế ấy, điều kiện ấy, bác đã tận lực, thức thời và đều đạt đến đỉnh cao.
Bài học lớn trong câu chuyện nhỏ của Bác viết về "Nhân cách Trần Nhân Tông" và "Nhân cách lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh" rất ngắn, rất hay và sâu sắc hiếm thấy.
Người hiền đi xa, tiếng thơm còn mãi. Bác viết rằng thế giới đổi thay chỉ giá trị nhân văn và tri thức hợp thời còn lại. Sau năm trăm năm, dân Việt sẽ còn nhớ đến Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Nhân cách và di sản tri thức của bác Trần Văn Giàu chắc chắn sẽ còn nhiều người tìm lại không chỉ vì sử và văn hóa mà vượt lên trên sử, bác đã và đang nói đến CON NGƯỜI.
BÁC VÕ NGUYÊN GIÁP DĨ CÔNG VI THƯỢNG, THIÊN TÀI QUÂN SỰ
Bác Võ dĩ công vi thượng, thiên tài quân sự, biết mình biết người. Thật đẹp tấm ảnh đại tướng Võ Nguyên Giáp và giáo sư Trần Văn Giàu chụp chung. Trí tuệ bậc Thầy của cặp song sinh thế kỷ.
TƯỞNG NHỚ BÁC TRẦN VĂN GIÀU
(Hoàng Kim thu thập tuyển chọn tư liệu các bài viết và nói về giáo sư Trần Văn Giàu)
Thứ Ba, 9 tháng 11, 2010
Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời
Hoàng Kim
Tôi viết bài này để tỏ lòng biết ơn thầy bạn dưới mái trường Nông Lâm thân thương và làm món quà nhỏ thân tặng cho các em sinh viên nghèo hiếu học nhân ngày Nhà giáo ViệtNam . Thầy, bạn là lộc xuân của đời tôi mà nếu thiếu sự động viên, giúp đỡ này thì tôi không thể có được ngày hôm nay:“Em đã học nhiều gương sáng danh nhân. Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí. Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ. Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin” (1).
Tôi viết bài này để tỏ lòng biết ơn thầy bạn dưới mái trường Nông Lâm thân thương và làm món quà nhỏ thân tặng cho các em sinh viên nghèo hiếu học nhân ngày Nhà giáo Việt
Về lại mái trường ta đã lớn khôn
Ai cũng có ước nguyện về trường. Tôi thấu hiểu vì sao thầy Đặng Quan Điện người Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn (tiền thân của Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hiện nay) năm trước đã đề nghị cho Thầy được ghé thăm Trường trước khi Thầy đi vào chốn vĩnh hằng. Thầy Tôn Thất Trình, người hiệu trưởng thứ hai của Trường nay 80 tuổi đã viết blog The Gift (2) như một quà tặng trao lại cho lớp trẻ và viết hai bài hột lúa (3), con cá (4) cho ngày Nhà giáo Việt Nam . Thầy Lưu Trọng Hiếu với tình yêu thương gửi lại (5) đã hiến tặng toàn bộ tiền phúng viếng của Thầy cùng với số tiền gia đình góp thêm để làm quỷ học bổng cho Trường tặng những em sinh viên nghèo hiếu học. Ca sỹ Đàm Vĩnh Hưng tặng học bổng cho sinh viên Đại học Nông Lâm gặp khó khăn học giỏi (6) vì tuổi thơ của anh nhọc nhằn không có cơ hội đến trường, khi thành đạt anh muốn chia sẻ để chắp cánh cho những ước mơ.
Tôi cũng là người học trò nghèo năm xưa với ba lần ra vào trường đại học, cựu sinh viên của năm lớp, nay tỏ lòng biết ơn bằng cách trở lại Trường góp chút công sức đào tạo và vinh danh những người Thầy người Bạn đã cống hiến không mệt mỏi, thầm lặng và yêu thương góp công cho sự nghiệp trồng người. Chừng nào mỗi chúng ta chưa thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa đủ mang lại niềm vui cho bữa ăn người nghèo thì chừng đó chúng ta vẫn còn phải dạy và học. Cái gốc của sự học là học làm người. Bài học quý về tình thầy bạn mong rằng sẽ có ích cho các em sinh viên đang nổ lực khởi nghiệp.
Quê tôi ở miền Trung nghèo khó “Nhà mình gần ngã ba sông/ Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình,/ Linh Giang (7) sông núi hữu tình / Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con/ Chèo thuyền cho khuất bến Son/ Để con khỏi chộ (thấy) nước non thêm buồn/ Câu thơ quặn thắt đời con/ Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ ”. Mẹ tôi mất sớm, cha bị bom Mỹ giết hại, tôi và chị gái đã được anh Hoàng Ngọc Dộ nuôi dạy cơm ngày một bữa suốt năm năm trời. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh đứng khóc trên bục giảng (8) vận động thầy cô, bạn hữu chia sớt khoai sắn giúp đỡ. Tôi cũng dạy năm lớp vở lòng, ba lớp bổ túc văn hóa để vượt khó vươn lên. Thầy Hiệu trưởng Trần Đình Côn đã viết những lời xúc động trong trường ca tình thầy trò: “Thương em nhỏ gieo neo mẹ mất. Lại cha già giặc giết hôm qua. Tình thầy, tình bạn, tình cha. Ấy là ân nghĩa thiết tha mặn nồng” (9) Những gương mặt thầy bạn đã trở thành máu thịt trong đời tôi.
Thi đậu vào Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc năm 1970, tôi học Trồng trọt 4 cùng khóa với các bạn Trần Văn Minh, Đỗ Thị Minh Huệ, Phan Thanh Kiếm, Đỗ Khắc Thịnh, Vũ Mạnh Hải, Phạm Sĩ Tân, Phạm Huy Trung, Lê Xuân Đính, Nguyễn Hữu Bình, Lê Huy Bá … cho đến ngày 02 tháng 9 năm 1971 thì tôi gia nhập quân đội cùng lứa với Nguyễn Văn Thạc. Đợt tuyển quân sinh viên trong ngày độc lập đã nói lên sự quyết liệt sinh tử và ý nghĩa thiêng liêng của ngày cầm súng. Chiến trường đánh lớn. Đơn vị chúng tôi chỉ huấn luyện rất ngắn rồi vào trận ngay với 81 đại đội vượt sông Thạch Hãn. Chiến dịch Quảng Trị năm 1972 sau này đã đi vào huyền thoại: “Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm” (10) Tổ chúng tôi bốn người thì Xuân và Chương hi sinh, chỉ Trung và tôi trở về trường sau ngày đất nước thống nhất. Những vần thơ viết dưới đây là xúc động sâu xa của tôi khi nghĩ về bạn học đồng đội đã khuất: “Trận chiến hôm qua bạn góp máu hồng. Lớp học hôm nay bạn không trở lại. Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội. Đồng chí ơi, tôi học cả phần anh” (11)
Tôi về học tiếp năm thứ hai tại Trồng trọt 10 của Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc đến cuối năm 1977 thì chuyển trường vào Đại học Nông nghiệp 4, tiền thân Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Trồng trọt 2 thuở đó là một lớp chung mãi cuối khóa mới tách ra 2A,2B, 2C. Tôi làm Chủ tịch Hội Sinh viên thay cho anh Nguyễn Anh Tuấn khoa thủy sản ra trường về dạy Đại học Cần Thơ. Trồng trọt khóa hai chúng tôi thuở đó được học với các thầy cô: Nguyễn Đăng Long, Tô Phúc Tường, Nguyễn Tâm Đài, Trịnh Xuân Vũ, Lê Văn Thượng, Ngô Kế Sương, Trần Thạnh, Lê Minh Triết, Phạm Kiến Nghiệp, Nguyễn Bá Khương, Nguyễn Tâm Thu, Nguyễn Bích Liễu, Trần Như Nguyện, Trần Nữ Thanh, Vũ Mỹ Liên, Từ Bích Thủy, Huỳnh Thị Lệ Nguyên, Trần Thị Kiếm, Vũ Thị Chỉnh, Ngô Thị Sáu, Huỳnh Trung Phu, Phan Gia Tân, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Văn Kế, … Ngoài ra còn có nhiều thầy cô hướng dẫn thực hành, thực tập, kỹ thuật phòng thí nghiệm, chủ nhiệm lớp như Bùi Cách Tuyến, Nguyễn Văn Kịp, Lê Quang Hưng, Trương Đình Khôi, Nguyễn Ngọc Châu, Nguyễn Gia Quốc, Nguyễn Văn Biền, Lê Huy Bá, Hoàng Quý Châu, Phạm Lệ Hòa, Đinh Ngọc Loan, Chung Anh Tú và cô Thảo làm thư ký văn phòng Khoa. Bác Năm Quỳnh là Bí thư Đảng ủy đầu tiên của Trường sau đó là thầy Kiên và cô Bạch Trà. Thầy Nguyễn Phan là Hiệu trưởng kiêm Trưởng Trại Thực nghiệm. Thầy Dương Thanh Liêm, Nguyễn Ngọc Tuân, Võ Thị Tuyết, Ngô Văn Mận, Bùi Xuân An ... ở khoa Chăn nuôi Thú y, thầy Nguyển Yên Khâu, Nguyễn Quang Lộc ... ở khoa Cơ khí, cô Nguyễn Thị Sâm ở Phòng Tổ chức, cô Văn Thị Bạch Mai dạy tiếng Anh, thầy Đặng, thầy Tuyển, thầy Châu ở Kinh tế -Mác Lê …Thầy Trần Thạnh, anh Quang, anh Đính, anh Đống ở trại Trường là những người đã gần gũi và giúp đỡ nhiều các lớp nông học.
Thầy Phan Gia Tân và lớp Trồng trọt 2C
Hình ảnh lớp TT 3 (H1), nữ TT3 (H2) ,
Nhóm bạn TT2 (H3) và họp mặt lớp TT2A
Nhóm bạn TT2 (H3) và họp mặt lớp TT2A
Tháng 5 năm 1981, nhóm sinh viên của khoa Nông học đã bảo vệ thành công đề tài thu thập và tuyển chọn giống khoai lang Hoàng Long, Chiêm Dâu, Gạo, Bí Đà Lạt được Bộ Nông nghiệp công nhận giống ở Hội nghị Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Toàn Quốc Lần thứ Nhất tổ chức tại Thành phố Hố Chí Minh. Đây là một trong những kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đầu tiên của Trường giới thiệu cho sản xuất. Thầy Cô Khoa Nông học và hai lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 cũng đã làm họ trai họ gái tác thành đám cưới cho vợ chồng tôi. Sau này, chúng tôi lấy tên khoai Hoàng Long để đặt cho con và thầm hứa việc tiếp nối sự nghiệp nghiên cứu khoa học và giảng dạy, một nghề nghiệp cao quý và lương thiện. “Biết ơn thầy cô giáo dịu hiền. Bằng khích lệ động viên lòng vượt khó. Trăm gian nan buổi ban đầu bở ngỡ. Có bạn thầy càng bền chí vươn lên. Trước mỗi khó khăn tập thể luôn bên. Chia ngọt xẻ bùi động viên tiếp sức. Thân thiết yêu thương như là ruột thịt. Ta tự nhủ lòng cần cố gắng hơn (11).
Bạn học chúng tôi vẫn thỉnh thoảng họp mặt, có Danh sách các lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 số điện thoại và địa chỉ liên lạc. Một số hình ảnh của các lớp ngày ấy và bây giờ.
Những bài học quý từ những người Thầy
Nhiều Thầy Bạn đã hun đúc nên nhân cách, niềm tin, nghị lực và trang bị kiến thức vào đời cho tôi, xin ghi lại một số người Thầy ảnh hưởng lớn đối với tôi và những bài học:
Thầy Mai Văn Quyền sống phúc hậu, tận tâm sát thực tiễn và hướng dẫn khoa học. Công việc làm người hướng dẫn khoa học trong điều kiện Việt
Thầy Norman Borlaug sống nhân đạo, làm nhà khoa học xanh và nêu gương tốt. Thầy là nhà nhân đạo, nhà nông học Mỹ cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống. Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29.8.1988. Thầy đã một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học "Quản lý Trung tâm/ Trạm trại Nông nghiệp". Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày cha mất. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch, Thầy bối rối xin lỗi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy. Lời Thầy dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao (13). Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm tiếng để đời”. (14)
Thầy Tôn Thất Trình sống nhân cách, dạy từ xa và chăm viết sách. Giáo sư Tôn Thất Trình sinh ngày 27 tháng 9 năm 1931 ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (Huế), thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn Phước, hiện hưu trí tại Irvine, California, Hoa Kỳ đã có nhiều đóng góp thiết thưc, hiệu quả cho nông nghiệp, giáo dục, kinh tế Việt Nam. Thầy làm giám đốc Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn theo bổ nhiệm của GS. Phạm Hoàng Hộ, tổng trưởng giáo dục đương thời chỉ sau bác sỹ Đặng Quan Điện vài tháng. Giáo sư Tôn Thất Trình đã hai lần làm Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa năm 1967 và 1973, nguyên chánh chuyên viên, tổng thư ký Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế của FAO (Rome). Thành tựu nổi bật của giáo sư trên lĩnh vực nông nghiệp bao gồm việc chỉ đạo phát triển đại trà năm 1967-1973 lúa Thần Nông (IR8…) nguồn gốc IRRI mang lại chuyển biến mới cho nghề lúa Việt Nam; Giáo sư trong những năm làm việc ở FAO đã giúp đỡ Bộ Nông nghiệp Việt Nam phát triển các giống lúa thuần thấp cây, ngắn ngày nguồn gốc IRRI cho các tỉnh phìa Bắc; giúp phát triển lúa lai, đẩy mạnh các chưong trình cao su tiểu điền, mía, bông vải, đay, đậu phộng , dừa, chuối, nuôi cá bè ở Châu Đốc An Giang, nuôi tôm ở Bạc Liêu, Sóc Trăng, nuôi cá măng ở Bình Định, nuôi tôm càng xanh ở ruộng nước ngọt, trồng phi lao chống cát bay, trồng bạch đàn xen cây họ đậu phủ xanh đất trống đồi trọc, trồng lại thông hai lá, ba lá ở Huế và ở Đà Lạt, nuôi heo lai ba dòng nhiều nạc, nuôi dê sữa , bò sữa, trồng rau, hoa, cây cảnh. Trong lĩnh vực giáo dục, giáo sư đã trực tiếp giảng dạy, đào tạo nhiều khóa học viên cao đẳng, đại học, biên soạn nhiều sách. Giáo sư có nhiều kinh nghiệm và đóng góp trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và quan hệ quốc tế với Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Pháp...
Tôi học gián tiếp Thầy qua sách báo và internet. Giáo trình nông học sau ngàyViệt Nam thống nhất thật thiếu thốn. Những sách Sinh lý Thực vật, Nông học Đại cương, Di truyền học, Khoa học Bệnh cây , Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam … do tập thể hoặc chuyên gia đầu ngành phía Bắc biên soạn thời đó hiếm và quý như vàng. Cái khó khác cho thầy trò chúng tôi là thiếu kinh nghiệm thực tiễn của đồng ruộng phương Nam . Những bộ sách của thầy Trình như Cải Thiện Trồng Lúa 1965-66 (hai lần tái bản), Nông Học Đại Cương 1967 (ba lần tái bản), Mía Đường 1972 (hai lần tái bản), Cây Ăn Trái Có Triển Vọng 1995 (ba lần tái bản), Cây Ăn Trái Cho Vùng Cao 2004, ... cùng với sách của các thầy Nguyễn Hiến Lê, Trần Văn Giàu, Phạm Hoàng Hộ, Lương Định Của, Lê Văn Căn, Vũ Công Hậu, Vũ Tuyên Hoàng, Đường Hồng Dật, Nguyễn Văn Luật, Võ Tòng Xuân, Mai Văn Quyền, Thái Công Tụng, Chu Phạm Ngọc Sơn, Phạm Thành Hổ … đã bổ khuyết rất nhiều cho sự học hỏi và thực tế đồng ruộng của chúng tôi. Sau này khi đã ra nước ngoài, thầy Trình cũng viết rất nhiều những bài báo khoa học kỹ thuật, khuyến học trên các báo nước ngoài, báoViệt Nam và blog The Gift.
Điều tôi thầm phục Thầy là nhân cách kẻ sĩ vượt lên cái khó của hoàn cảnh để phụng sự đất nước. Lúa Thần Nông áp dụng ở miền Nam sớm hơn miền Bắc gần một thập kỷ. Sự giúp đỡ liên tục và hiệu quả của FAO sau ngày Việt Nam thống nhất có công lớn của thầy Trình và anh Nguyễn Văn Đạt làm chánh chuyên gia của FAO. Blog The Gift là nơi lưu trữ những "tâm tình" của gíáo sư dành cho Việt Nam, đăng các bài chọn lọc của Thầy từ năm 2005 sau khi về hưu. Đa số các bài viết trên blog của giáo sư về Phát triển Nông nghiệp, Kinh Tế Việt Nam , Khoa học và Đời sống trong chiều hướng khuyến khích sự hiếu học của lớp trẻ. Nhân cách và tầm nhìn của Thầy đối với tương lai và vận mệnh của đất nước đã đưa đến những đóng góp hiệu quả của Thầy kết nối giữa quá khứ và hiện tại, tạo niềm tin tương lai, hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Thầy, Bạn là lộc xuân của cuộc đời
Bill Clinton trong tác phẩm ‘Đời tôi’ (15) đã xác định năm việc chính quan trọng nhất của đời mình là muốn làm người tốt, có gia đình êm ấm, có bạn tốt, thành đạt trong cuộc sống và viết được một cuốn sách để đời. Ông đã giữ trên 30 năm cuốn sách mỏng “Làm thế nào để kiểm soát thời gian và cuộc sống của bạn” và nhớ rõ năm việc chính mà ông ước mơ từ lúc còn trẻ. Thầy quý bạn hiền là lộc xuân của cuộc đời. Tôi biết ơn mái trường thân yêu mà từ đó tôi đã vào đời để có được những cơ hội học và làm những điều hay lẽ phải.
Anh Bùi Chí Bửu tâm sự với tôi: Anh Bổng (Bùi Bá Bổng) và mình đều rất thích bài thơ này của Sơn Nam :
Trong khói sóng mênh mông
Có bóng người vô danh
Từ bên này sông Tiền
Qua bên kia sông Hậu
Điệu thơ Lục Vân Tiên
Với câu chữ
Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả
Từ Cà Mau Rạch Giá
Dựng chòi đốt lửa giữa rừng thiêng
Muỗi vắt nhiều hơn cỏ
Chướng khí mờ như sương
Thân chưa là lính thú
Sao không về cố hương ?
Anh Mai Thành Phụng vừa lo xong diễn đàn khuyến nông Sản xuất lúa theo GAP (17) tại Tiền Giang lại lặn lội đi Sóc Trăng ngay để kịp Hội thi và trình diễn máy thu hoạch lúa. Anh Lê Hùng Lân trăn trở cho giống lúa mới Nàng Hoa 9 và thương hiệu gạo Việt xuất khẩu. Anh Trần Văn Đạt vừa giúp ý kiến “Xây dựng thương hiệu cho lúa gạo Việt
Trường Đại Học Nông Lâm Thủ Đức 2005 Nửa Thế kỷ Xây dựng và Phát triển (19) đến nay 2010 đã tròn 55 năm kỹ niệm ngày thành lập. Dưới mái trường thân yêu này, có biết bao nhà khoa học xanh, nhà giáo nghề nông vô danh đã thầm lặng gắn bó đời mình với nhà nông, sinh viên, ruộng đồng, giảng đường và phòng thí nghiệm. Thật xúc động và tự hào được góp phần giới thiệu một góc nhìn về sự dấn thân và kinh nghiệm của họ..
TS. Hoàng Kim,
cựu sinh viên TT2-NLU
GVC Bộ môn Cây Lương thực, Rau Hoa Quả
http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkim
https://sites.google.com/site/hoangkimsite/
https://sites.google.com/site/hoangkimvietnam/
TS. Hoàng Kim,
cựu sinh viên TT2-NLU
GVC Bộ môn Cây Lương thực, Rau Hoa Quả
http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkim
https://sites.google.com/site/hoangkimsite/
https://sites.google.com/site/hoangkimvietnam/
Tài liệu dẫn
1. Hoàng Kim 2009 Thắp đèn lên đi em! (1970)
1. Hoàng Kim 2009 Thắp đèn lên đi em! (1970)
3. Tôn Thất Trình 2010. Hột nguyên vẹn
http://tonthat-tonnu.blogspot.com/2010/08/hot-nguyen-ven.html
http://tonthat-tonnu.blogspot.com/2010/08/hot-nguyen-ven.html
4. Tôn Thất Trình 2010. Nuôi cá biển Việt Nam http://tonthat-tonnu.blogspot.com/2010/08/nuoi-ca-bien-viet-nam.html
5. Hoàng Kim 2009. Trường tôi và lòng yêu thương gửi lại của thầy Lưu Trọng Hiếu
6. Đàm Vĩnh Hưng tặng học bổng cho sinh viên http://vtc.vn/151-203976/van-hoa/doi-song-van-nghe/dam-vinh-hung-tang-hoc-bong-cho-sinh-vien.htm
8. Hoàng Kim 2008 . Di cảo thơ thầy Nguyễn Khoa Tịnh : Em ơi em can đảm bước chân lên ! http://my.opera.com/hoangkimvietnam/blog/em-oi-em-can-dam-b
9. Trần Đình Côn 1968. Bài ca Trường cấp ba Bắc Quảng Trạch. In trong Kỷ yếu Mái trường bên dòng sông Gianh trang 23.
10. Văn Công Hùng 2007. Người thường niên thả hoa trên dòng Thạch Hãn
11. Hoàng Kim 2007. Nghị lực (1977). In trong Kỷ yếu Trồng trọt C Khóa 2 (1976-1981) Đại học Nông Lâm TP. HCM tr.50-51. http://thovanhoangkim.blogspot.com/2008/09/ngh-lc.html
13. Doanh Anh 2009. Cha đẻ của cách mạng xanh: Hãy vươn tới những vì sao. Mekong News.
14. Hoàng Kim 2009. Norman Borlaug di sản niềm tin và nghị lực. http://foodcrops.blogspot.com/2009/09/nho-norman-borlaug.html
15. Bill Clinton 2007. Đời tôi. Nhà xuất bản Công an Nhân dân , TP Hồ Chí Minh. 1375 trang.
16. Institute of Agricultural Sciences for Southern Vietnam (IAS) 2009 Research Highlights . Commemorating 85 years since foundation. 121 Nguyen Binh Khiem St. District1. Ho Chi Minh city , Vietnam . Tel: 84.8.38228371 Fax +84.8. 38297650 Email iasvn@vnn.vn, iasvn@iasvn.org Website http://iasvn.org
17. Mai Thành Phụng, Phạm Văn Tình, Vũ Tiết Sơn 2010. Diễn đàn Khuyến nông @Nông nghiệp lần thứ 5-2010 chuyên đề “Sản xuất lúa theo GAP” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia chủ trì, tổ chức tại Tiền Giang. Nhà xuất bản nông nghiệp TP. Hồ Chí Minh, 468 trang.
18. Trần Văn Đạt 2010. Những tháng ngày với Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn
19. Trường Đại Học Nông Lâm Thủ Đức. 2005. Nửa Thế kỷ Xây dựng và Phát triển. Kỷ yếu Trường Đại Học Nông Lâm, 250 trang. Địa chỉ: Phường Linh Trung, Quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh Điện thoại: (84-8)-38966780- Fax: 84-8-38960713 Email: vp @ hcmuaf.edu.vn - Website: http://www.hcmuaf.edu.vn
* Bài đã đăng trong Kỹ yếu Khoa Nông học Kỹ niệm 55 năm ngày thành lập Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh trang 97-105. Tải toàn văn cuốn kỷ yếu 120 trang tại đây:
* Bài đã đăng trong Kỹ yếu Khoa Nông học Kỹ niệm 55 năm ngày thành lập Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh trang 97-105. Tải toàn văn cuốn kỷ yếu 120 trang tại đây:
Thơ Trần Tử Ngang nửa đời đọc lại

THUNG DUNG. Hoang Kim. Tôi biết "Bài ca lên đài U Châu" của Trần Tử Ngang. “ Ngưòi trước chẳng thấy ai / Người sau thì chưa thấy / Gẫm trời đất thật vô cùng / Riêng lòng đau mà lệ chảy ”. (Tương Như dịch) lúc tôi tuổi 17, khi may mắn được nghe bác Xuân Thủy bình bài thơ này trên đỉnh đèo Ngang (Mời đọc thêm: Lên đỉnh đèo Ngang ngắm biển; Qua đèo Ngang gặp bác Xuân Thủy; Qua đèo chợt gặp mai đầu suối; Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ). Nơi cổng Trời "Hoành sơn cổ lũy" đèo Ngang gánh hai đầu đất nước, ngoài câu chuyện về thơ Bác Hồ, tôi cũng được nghe về thơ Trần Tử Ngang và thơ Mãn Giác thiền sư. Lạ thay, 38 năm sau, thơ Trần Tử Ngang cũng lại được bạn Cao Nguyên nhắc đến gợi mở cho tôi viết trang phác thảo này “Thơ Trần Tử Ngang nửa đời đọc lại”
TRẦN TỬ NGANG CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
Trần Tử Ngang( 661 - 702) là nhà thơ có địa vị trọng yếu trên thi đàn thời Sơ Đường. Ảnh hưởng của ông rất lớn đối với thi ca thời Thịnh Ðường cũng như phong trào vận động cổ văn thời Trung Ðường. Ông có tên tự là Bá Ngọc, người đất Xạ Hồng, phủ Từ Châu (hiện là tỉnh Tứ Xuyên ). Ông đậu tiến sĩ lúc 24 tuổi năm 684 (đời Đường Trung Tông) làm đại quan trong triều Võ Tắc Thiên với chức Lan đài chính tự sau đó đổi làm chức Tả thập di.

Phong cách thơ của ông xuất chúng, ngụ ý sâu xa. Trần Tử Ngang thời niên thiếu gia đình tương đối giàu có, coi nhẹ tiền bạc, khẳng khái. Sau khi trưởng thành, ông quyết tâm học, giỏi viết văn; đồng thời quan tâm quốc sự , quyết lập công tích về chính trị. Ông thường dâng sớ điều trần về đại kế quốc gia nhưng không được Vũ hậu nghe theo. Vũ hậu là người mưu lược, cương nghị, quyền biến, tâm cơ. Bà không từ một thủ đoạn nào để mua chuộc, lôi kéo hoặc thẳng tay triệt hạ những người tài giỏi thuộc vây cánh của đối phương nhằm thâu tóm quyền lực, Dưới thời của bà những người tài không thuộc bè phái thường bị nguy hiểm.

Trần Tử Ngang khẳng khái, không sợ bức hại, nhiều lần trình tấu, khuyên can. Võ Tắc Thiên lập kế hoạch mở con đường Thục Sơn Kinh Nha Châu công kích dân tộc Sinh Khương, ông đã trình tấu phản đối, chủ trương an cư lạc nghiệp. Nhân việc Vũ Du Nghi phụng mệnh đi đánh Khiết Ðan, ông xin ra làm tham mưu. Vũ Du Nghi không nghe kế ông nên bị bại trận. Ông từ quan trở về quê cũ nhưng vẫn bị bọn tiểu nhân vu tội bắt giam và chết trong ngục.

GIAI THOẠI ĐẬP ĐÀN CỦA TRẦN TỬ NGANG
Trần Tử Ngang có giai thoại nổi tiếng về việc đập đàn. Lần đầu tiên đến Trường An, ông không được một ai biết đến. Ông liền bỏ ra một ngàn quan tiền, mua một cây đàn hồ cầm rất quí, rồi mời mọi người đến dự tiệc, nghe nhạc.
Khi moi người tề tựu đông đủ và háo hức chờ nghe nhạc. Ông đứng lên nói: Tôi là Trần Tử Ngang người đất Thục, có trăm quyển văn, rong ruổi kinh sư, mà địa vị vẫn tầm thường giữa nơi bụi bậm, không ai biết đến. Nhạc này là của kẻ thợ hèn đâu đáng lưu tâm?

Nói đoạn ông đập tan cây đàn trước sự sững sờ, kinh ngạc của nhiều người. Kế đó, ông đem các cuốn văn ra tặng cho cử tọa. Trong một ngày danh tiếng của ông chấn động khắp kinh thành, mọi người ai cũng biết tiếng.
Năm 24 tuổi, Trần Tử Ngang với văn tài xuất chúng đã thi đậu tiến sĩ và được Võ hậu nể phục tài năng. Luận về thơ,ông nói: "Làm thơ là để gởi tấm lòng vào thiên cổ chứ đâu phải để lưu danh nhất thời".
Quả nhiên, những tuyệt phẩm thơ của Trần Tủ Ngang mười ba thế kỷ sau, đến nay vẫn còn tốn hao giấy mực của nhiều người. Trung Quốc hiện có nhiều địa chỉ web về Trần Tử Ngang , bạn có thể tìm trên Google tại từ khóa 陳子昂 (Trần Tử Ngang).
BÀI CA LÊN ĐÀI U CHÂU CỦA TRẦN TỬ NGANG
“ Ngưòi trước chẳng thấy ai / Người sau thì chưa thấy / Gẫm trời đất thật vô cùng / Riêng lòng đau mà lệ chảy ”. Tương Như dịch


Đăng U Châu Đài Ca
Tiền bất kiến cổ nhân,
Hậu bất kiến lai giả.
Niệm thiên địa chi du du,
Ðộc sảng nhiên nhi thế hạ.
Trần Tử Ngang
* U châu : nay là Bắc Kinh

Dịch nghĩa :
Bài ca lên đài U Châu
Trông lại trước không thấy người xưa ; nhìn về sau, không thấy kẽ mới đến. Nghĩ nổi trời đất lâu dài man mác, một mình bùi ngùi rơi lệ.
Bài ca lên đài U Châu
Ngoảnh lại trước, người xưa vắng vẻ
Trông về sau, quạnh quẽ người sau
Ngẫm hay trời đất dài lâu
Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan.
Trần Trọng San dịch

Trước chẳng thấy người xưa,
Sau chẳng thấy ai cả.
Ngẫm trời đất thăm thẳm sao!
Riêng xót xa lệ lã chã.
Trần Trọng Kim dịch

Bài ca lên đài U Châu
Trước không gặp được người xưa
Sau không gặp được kẻ chưa ra đời
Mênh mang ngẫm lẽ đất trời
Một mình để giọt lệ rơi bùi ngùi
Cao Nguyên dịch
SUY NGẪM VỀ THƠ NGOÀI NGHÌN NĂM CỦA TRẦN TỬ NGANG
Lên núi cao ngắm biển trời để thấu hiểu sự mênh mang vô cùng của trời đất, lẽ huyền vi của tạo hóa, sự thịnh suy được mất của các triều đại, sự biến dịch của nhân quả, sự ngắn ngủi hữu hạn của kiếp người. Điều đó đã được nhiều người trãi nghiệm…
Chúng ta đọc thêm hai bài thơ nữa của Trần Tử Ngang để hiểu rõ hơn về ông:

Kế khâu lãm cổ
Nam đăng Kệ Thạch quán,
Dao vọng Hoàng Kim đài.
Khâu lăng tận kiều mộc
Chiêu Vương an tại tai
Bá đồ trướng dĩ hĩ,
Khu mã phục quy lai.
Gò Kế xem cảnh năm xưa
Trèo lên Kệ Thạch quán nam,
Xa xa trông ngóng Hoàng Kim có đài.
Cây cao phủ hết quanh đồi.
Vua Chiêu ngày trước nay thời nơi nao?
Cơ đồ bá chủ còn đâu!
Nhớ ai đánh ngựa ta âu lại về.
Tản Đà dịch
Nhị cú tam niên đắc
Nhất ngâm song lệ lưu
Tri âm bất tương thức
Quy ngọa cố sơn thu
(Trần Tử Ngang)
Ba năm làm được hai câu
Ngâm lên một bận dòng châu tuôn trào
Tri âm chẳng hiểu lòng nhau
Xin về núi cũ nằm khào nhớ thu
(Vũ Đức Sao Biển dịch)
Hai câu thơ ba năm làm mới được
Ngâm lên rồi bất giác lệ tuôn rơi
Hỡi tri âm, lòng nhau sao không hiểu
Chốn non xưa đành về ngắm mây trời...
(gamai dịch lại)

Trong văn chương Việt, khi đọc bài kệ “Cáo tật thị chúng” của thiền sư Mãn Giác, bài “Mài kiếm dưới trăng”của tráng sĩ Đặng Dung và đọc thơ Nguyễn Du, ta đều cảm nhận thấy sự ung dung, an nhiên tự tại, thấu suốt lẽ sinh tử… và đều có nỗi buồn man mác. Đấy có thể là điều để hiểu thơ Trần Tử Ngang chăng?
Hoàng Kim
Những hình Trần Tử Ngang và thư pháp trong bài này dẫn theo www.hudong.com
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)

Em ơi em, can đảm bước chân lên
Nguyễn Khoa Tịnh
Thầy ước mong em
noi gương Quốc Tuấn
Đọc thơ em, tim tôi thắt lại
Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng
Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng
Xót xa vì đời em còn thơ dại
Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải
Mới biết cười đã phải sống mồ côi
Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi
Như chiếc lá bay về nơi vô định
“Bụng đói” viết ra thơ em vịnh:
“Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai
Có biết lòng ta bấy hỡi ai?
Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng
Kể chi no đói, mặc ngày dài”
Phải!
Kể chi no đói mặc ngày dài
Rất tự hào là thơ em sung sức
Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực
Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang”
“Trung dũng ai bằng cái chảo rang
Lửa to mới biết sáp hay vàng
Xào nấu chiên kho đều vẹn cả
Chua cay mặn ngọt giữ an toàn
Ném tung chẳng vỡ như nồi đất
Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang
Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão
Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”
Phải!
Lửa to mới biết sáp hay vàng!
Em hãy là vàng,
Mặc ai chọn sáp!
Tôi vui sướng cùng em
Yêu giấc “Ngủ đồng”
Hiên ngang khí phách:
“Sách truyền sướng nhất chức Quận công
Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng
Lồng lộng trời hè muôn làn gió
Đêm thanh sao sang mát thu không
Nằm ngữa ung dung như khanh tướng
Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng
Tinh tú bao quanh hồn thời đại
Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong”
Tôi biết chí em khi "Qua đèo Ngang”
Ung dung xướng họa với người anh hùng
Đã làm quân thù khiếp sợ:
“Ta đi qua đèo Ngang
Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm
Đỉnh dốc chênh vênh
Xe mù bụi cuốn
Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ
Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ
Điệp điệp núi cao
Trùng trùng rừng thẳm.
Người thấy
Súng gác trời xanh
Gió lùa biển lớn
Nông dân rộn rịp đường vui
Thanh Quan nàng nhẽ có hay
Cảnh mới đã thay cảnh cũ.
Ta hay
Máu chồng đất đỏ
Mây cuốn dặm khơi
Nhân công giọt giọt mồ hôi
Hưng Đạo thầy ơi có biết
Người nay nối chí người xưa
Tới đây
Nước biếc non xanh
Biển rộng gió đùa khuấy nước
Đi nữa
Đèo sâu vực thẳm
Núi cao mây giỡn chọc trời
Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai
Thương dân nước, thà sinh phận gái
“Hoành Sơn cổ lũy”
Hỏi đâu dấu tích phân tranh?
Chỉ thấy non sông
Lốc cuốn, bốn phương sấm động.
Người vì việc nước ra đi
Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế
Điều không hẹn mà xui gặp mặt
Vô danh lại gặp hữu danh
Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau
Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất
Anh em ta ngự trên xe đạp
Còn Người thì lại đáp com măng
Đường xuyên sơn
Anh hùng gặp anh hùng
Nhìn sóng biển Đông
Như ao trời dưới núi.
Xin kính chào
Bậc anh hùng tiền bối
Ta ngưỡng mộ Người
Và tỏ chí với non sông
Mẹ hiền ơi!
Tổ Quốc ơi!
Xin tiếp bước anh hùng!”
Hãy cố lên em!
Noi gương danh nhân mà lập chí
Ta với em
Mình hãy kết thành đôi tri kỷ!
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em:
"Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền
Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên
Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ
Thương dân, yêu nước quyết báo đền
Văn hay thu phục muôn người Việt
Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên
Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn
Nối chí ông, nay cháu tiến lên!”
Tôi thương mến em
Đã chịu khó luyện rèn
Biết HỌC LÀM NGƯỜI !
Học làm con hiếu thảo.
Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo”
Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo
Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương
Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp
Giọng líu lo như chim hót ven đường.
Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu
Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn
Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến
Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!
Tổ Quốc đang chờ em phía trước.
Em ơi em, can đảm bước chân lên!
1970