Thứ Năm, 18 tháng 6, 2009
Sóc Trăng nơi sông về tới biển
DẠY VÀ HỌC. Dòng sông quê hương, dòng sông tuổi thơ, dòng sông tình yêu suốt đời thao thiết chảy. Sóc Trăng là nơi sông về tới biển. Tiếng Khmer, Sóc Trăng gọi là Srok Kh'leang nghĩa là cõi báu (Srok là cõi, Kh'leang là kho báu). Srok Kh'leang là cõi Phật, là chốn Bồng Lai. Nghĩa khác của Sóc Trăng là Sông Trăng. Dưới triều Minh Mạng, Sóc Trăng có tên là Nguyệt Giang (Sông Trăng). Đối diện với mặt trời nóng ấm là sông trăng hiền hòa, lồng lộng đi về biển lớn (Sông Mekong ngã Năm, Sóc Trăng).
Tôi sinh ra và lớn lên ở Quảng Bình, một tỉnh nghèo ven biển miền Trung. Ký ức tuổi thơ gắn với sông Giang (Linh Giang) huyền thoại. Cha mẹ làm nghề nông nhưng cha cũng làm thêm nghề chèo đò. Ông đã từng cứu người chết đuối và được đền ơn bằng lời khuyên đổi tên tuổi thơ cho tôi từ Hoàng Minh Kim thành Hoàng Kim mà tôi sẽ kể vào một dịp khác.
(Sông Gianh, nguồn Son lối vào động Phong Nha, Quảng Bình)
Nhà tôi ở ngã ba sông của rào Nan và nguồn Son. Đường sông lối nguồn Son vào động Phong Nha khá gần. Thuở nhỏ đi hái củi tôi vẫn thường qua lại hang động. Sau này động Phong Nha đã trở thành danh thắng nổi tiếng thế giới gắn với sông Gianh, đèo Ngang của tuổi thơ và biển Quảng Bình.
Biển
Anh yêu biển tự khi nào chẳng rõ
Bởi lớn lên đã có biển quanh rồi
Gió biển thổi nồng nàn hương biển gọi
Để xa rồi thương nhớ chẳng hề nguôi
Nơi quê mẹ mặt trời lên từ biển
Mỗi sớm mai gió biển nhẹ lay màn
Ráng biển đỏ hồng lên như chuỗi ngọc
Nghiêng bóng dừa soi biếc những dòng sông
Qua đất lạ ngóng xa vời Tổ Quốc
Lại dịu hiền gặp biển ở kề bên
Khi mỗi tối điện bừng bờ biển sáng
Bỗng nhớ nhà những lúc mặt trăng lên
Theo ngọn sóng trông mù xa tít tắp
Nơi mặt trời sà xuống biển mênh mông
Ở nơi đó là bến bờ Tổ Quốc
Sóng yêu thương vỗ mãi đến vô cùng …
Lớn lên, tôi ra học Đại Học Nông nghiệp 2 ở Đồn Lương, Việt Yên, Hà Bắc và nhập ngũ năm 1971 cùng đợt với Nguyễn Văn Thạc. Ngày lên đường có sự thầm yêu thương của người bạn gái cùng lớp mà mãi sau này trong sổ tay chiến sĩ tôi còn trân trọng giữ gìn hai bài thơ thuở đó:
Tình em
Em trao duyên cho anh
Anh nén lòng
Dành
Đợi
Em lấy chồng rồi
Anh nợ mãi
Tình em
Qua sông Thương gửi về bến nhớ
Ta lại hành quân qua sông Thương
Một đêm vào trận tuyến
Nghe Tổ Quốc gọi lên đường!
Mà lòng ta xao xuyến
Và hồn ta căng gió reo vui
Như dòng sông Thương chảy mãi về xuôi
Hôm nay ta ra đi
Súng thép trên vai nóng bỏng
Không qua nhịp cầu ngày xưa soi bóng
Phà đưa ta sang sông
Rạo rực trời khuya, thao thức trong lòng
Rầm rập dòng sông sóng nhạc
Như tình thân yêu muôn vàn của Bác
Tiễn đàn con ra đi
Tầu cập bến rầm rì tiếng máy
Tiếng động cơ sục dưới khoang tàu
Hay sôi ở trong lòng đất cháy
Hay giữa tim ta thúc giục lên đường
Chào bờ Bắc thân yêu hẹn ngày trở lại!
Ôi những con thuyền đèn trôi suốt canh khuya
Có khua nhẹ mái chèo qua bến cũ
Nhắn cho ai ngày đêm không ngủ
Rằng ta đi chưa kịp báo tin vui
Đêm nay bên dòng nước nghiêng trôi
Sông vẫn thức canh trời Tổ Quốc
Rạo rực lòng ta bồi hồi tiếng hát
Đổ về bến lạ xa xôi
Với biển reo ca rộng mở chân trời
Dòng sông tuổi xuân thao thiết chảy. Năm 1972, tại Tây Nguyên tôi có kỷ niệm không thể quên về những ngày đói gạo, ăn rau rừng và câu cá ven sông Srêpok gần Buôn Đôn. Nhớ buổi câu cho bữa cơm người bạn sốt rừng ốm nặng thèm ăn cá.Đây là bài thơ khóc bạn.
Câu cá bên dòng Srêpok
Bạn chèo thuyền trên sông Vôn ga
Có biết nơi này mình câu cá?
Srêpok giữa mùa mưa lũ
Sốt rừng, muỗi vắt, đói cơm
Suốt dọc đường hành quân
Máy bay,
pháo bầy,
thám báo,
mưa bom
Chốt binh trạm giữa rừng
Người bạn thân
Lả người
Vì cơn rét đậm
Thèm một chút cá tươi
Mình câu cá
Cho bữa cơm cuối cùng của người thân
mà nước mắt
đời người
rơi, rơi...
mặn đắng
Bạn ơi
Con cá nhỏ trên dòng Srêpok
Nay đã theo dòng thác lũ cuốn đi rồi
Đất nước nghìn năm
Trọn một lời thề
Sống chết thủy chung
với dân tộc mình
Muôn suối nhỏ
Đều đi về biển lớn.
Sau ngày đất nước thống nhất đến năm 1977, tôi về lại mái trường thân yêu học tiếp Đại học Nông nghiệp. Tốt nghiệp ra trường, trên một phần tư thế kỹ liên tục gắn bó với những nghiên cứu chọn giống và thâm canh cây trồng ở Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh và trên ruộng nông dân tại Đông Nam Bộ và các tỉnh miền Trung, Tây Nam Bộ, Tây Nguyên...Tôi đã đi qua hầu hết các tỉnh thành trong cả nước và hầu hết các châu lục trên thế giới, được ngắm nhìn nhiều dòng sông ở nhiều vùng văn hóa khác nhau.
(Chùa Đất Sét, Sóc Trăng)
Tới nơi đây, về Sóc Trăng, mảnh đất Tổ Quốc thiêng liêng nơi gần cực Nam đất nước, được đón bình minh nơi cửa biển, lòng tôi trào dâng niềm xúc động bồi hồi. Dòng sông quê hương, dòng sông tuổi thơ, dòng sông tình yêu suốt đời thao thiết chảy. Tôi đã ra đi từ dòng sông quê hương miền Trung, tới phương Bắc, về phương Nam và nay chọn đất phương Nam làm quê hương thứ hai. ‘‘Dân Việt nghìn năm xuôi lấn biển/Tựa lưng vào núi hướng về Nam/ Thoáng chốc nghìn năm nhìn trở lại/ Tháp vàng, hoa trắng, nắng Mekong”. Cửu Long là sông lớn nhất của đất phương Nam. Sóc Trăng là nơi sông về tới biển. Sóc Trăng là Srok Kh'leang là cõi báu, là đất Phật, chốn Bồng Lai. Sóc Trăng có sông trăng hiền hòa, lồng lộng đi ra biển lớn. Tôi thích đọc những chấm phá về người và đất phương Nam có trong các trang văn của Nguyên Ngọc, Sơn Nam, Nguyễn Ngọc Tư, Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng, Trang Thế Hy, Nguyễn Một .... và bất giác nhớ đến bài thơ:
Điểm hẹn
Anh như chim ưng quay về tổ ấm
Vẫn khát bầu trời ước vọng bay lên
Ơi Bồng Lai cồn cào nỗi nhớ
Anh về bên này lại nhớ bên em.
Chủ Nhật 14.9.2009
(Còn nữa: Bài 3 Sóc Trăng những tên đất tên người )
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Em ơi em, can đảm bước chân lên
Nguyễn Khoa Tịnh
Thầy ước mong em
noi gương Quốc Tuấn
Đọc thơ em, tim tôi thắt lại
Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng
Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng
Xót xa vì đời em còn thơ dại
Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải
Mới biết cười đã phải sống mồ côi
Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi
Như chiếc lá bay về nơi vô định
“Bụng đói” viết ra thơ em vịnh:
“Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai
Có biết lòng ta bấy hỡi ai?
Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng
Kể chi no đói, mặc ngày dài”
Phải!
Kể chi no đói mặc ngày dài
Rất tự hào là thơ em sung sức
Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực
Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang”
“Trung dũng ai bằng cái chảo rang
Lửa to mới biết sáp hay vàng
Xào nấu chiên kho đều vẹn cả
Chua cay mặn ngọt giữ an toàn
Ném tung chẳng vỡ như nồi đất
Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang
Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão
Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”
Phải!
Lửa to mới biết sáp hay vàng!
Em hãy là vàng,
Mặc ai chọn sáp!
Tôi vui sướng cùng em
Yêu giấc “Ngủ đồng”
Hiên ngang khí phách:
“Sách truyền sướng nhất chức Quận công
Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng
Lồng lộng trời hè muôn làn gió
Đêm thanh sao sang mát thu không
Nằm ngữa ung dung như khanh tướng
Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng
Tinh tú bao quanh hồn thời đại
Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong”
Tôi biết chí em khi "Qua đèo Ngang”
Ung dung xướng họa với người anh hùng
Đã làm quân thù khiếp sợ:
“Ta đi qua đèo Ngang
Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm
Đỉnh dốc chênh vênh
Xe mù bụi cuốn
Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ
Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ
Điệp điệp núi cao
Trùng trùng rừng thẳm.
Người thấy
Súng gác trời xanh
Gió lùa biển lớn
Nông dân rộn rịp đường vui
Thanh Quan nàng nhẽ có hay
Cảnh mới đã thay cảnh cũ.
Ta hay
Máu chồng đất đỏ
Mây cuốn dặm khơi
Nhân công giọt giọt mồ hôi
Hưng Đạo thầy ơi có biết
Người nay nối chí người xưa
Tới đây
Nước biếc non xanh
Biển rộng gió đùa khuấy nước
Đi nữa
Đèo sâu vực thẳm
Núi cao mây giỡn chọc trời
Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai
Thương dân nước, thà sinh phận gái
“Hoành Sơn cổ lũy”
Hỏi đâu dấu tích phân tranh?
Chỉ thấy non sông
Lốc cuốn, bốn phương sấm động.
Người vì việc nước ra đi
Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế
Điều không hẹn mà xui gặp mặt
Vô danh lại gặp hữu danh
Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau
Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất
Anh em ta ngự trên xe đạp
Còn Người thì lại đáp com măng
Đường xuyên sơn
Anh hùng gặp anh hùng
Nhìn sóng biển Đông
Như ao trời dưới núi.
Xin kính chào
Bậc anh hùng tiền bối
Ta ngưỡng mộ Người
Và tỏ chí với non sông
Mẹ hiền ơi!
Tổ Quốc ơi!
Xin tiếp bước anh hùng!”
Hãy cố lên em!
Noi gương danh nhân mà lập chí
Ta với em
Mình hãy kết thành đôi tri kỷ!
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em:
"Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền
Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên
Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ
Thương dân, yêu nước quyết báo đền
Văn hay thu phục muôn người Việt
Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên
Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn
Nối chí ông, nay cháu tiến lên!”
Tôi thương mến em
Đã chịu khó luyện rèn
Biết HỌC LÀM NGƯỜI !
Học làm con hiếu thảo.
Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo”
Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo
Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương
Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp
Giọng líu lo như chim hót ven đường.
Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu
Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn
Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến
Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!
Tổ Quốc đang chờ em phía trước.
Em ơi em, can đảm bước chân lên!
1970
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét